Cư sĩ Trần Phi Lâm công chức hãng đường Đài Đông là một vị Phật tử thuần thành, nhưng vợ của ông ta lúc đầu chống đối kịch liệt ông chồng tin Phật, niệm Phật, tuy nhiên Trần cư sĩ cũng không thối tâm chút nào, vẫn cứ tinh tấn, và một mặt với tâm từ bi cố sức khuyên vợ rằng: “Chúng ta có miệng phải nên niệm Phật A Di Đà tức là cái vốn cho sau này được vãng sanh Tây phương, nhưng trước khi chưa được sanh Tây phương, cũng có thể gặp dữ hóa lành, tiêu tai giải nạn, đối với bản thân có sự lợi ích không gì bằng”. Bà Trần được ông chồng hàng ngày cảm hóa như thế, lại cứ như đàn khảy tai trâu, hoàn toàn chẳng nghe. Tuy thế bà Trần này lại là một bà chủ giỏi khéo coi sóc việc nhà vừa cần cù vừa tiết kiệm, có lúc còn lên núi kiếm củi, gánh một gánh củi lớn xuống núi, rồi ngồi một chiếc xe lửa nhỏ cuối cùng về nhà. Nhưng có một lần bà Trần gánh củi xuống núi, không ngờ mặt trời đã lặn, chiếc xe cuối cùng đã chạy rồi, chiếc xe lửa nhỏ trên núi là xe kéo mía, không phải là xe chuyên chở khách, cho nên sau khi chuyến xe cuối cùng chạy đi rồi, thì ai tự về nhà nấy, không có ai ở lại trạm xe cả. Trời đã tối, bà Trần trên vai gánh một gánh củi lớn, tự mình khích lệ sức mạnh, quyết định đi bộ về nhà, một thân một mình thuận theo con đường sắt, đi giữa đường ray tiến thẳng về phía trước. Lúc đi được nửa đường đột nhiên thấy giữa đường ray phía trước một bóng đen của một đại hán đang đứng, lúc ấy bà Trần càng đi thì càng gần, nhìn càng rõ, toàn thân lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi quăng gánh củi trên vai do vì bà đã hết sức gánh tiếp. Bà Trần đang lúc đêm đen có một mình nhìn thấy bóng đen kia, trong khoảnh khắc đó, bỗng nhiên nhớ lại việc mấy năm trời được chồng huân tập cho một câu chú vương từ nào không chịu đón nhận, nhứt là không hề muốn niệm, đang lúc vô cùng nguy cấp này, việc đến mới ôm chân Phật, bà đứng ngay nơi đó, không kềm được chắp tay lại, to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Niệm được vài phút, cái bóng đen của đại hán đó, dường như đã có cái dạng bước sang một bên rồi và dần dần mất tiêu luôn. Bà Trần nhìn thấy thật rõ ràng, liền vội vã đi nhanh lên, cả đến gánh củi cũng không màng đến.
Trên đường chạy về nhà của bà Trần, trong miệng vẫn không ngớt niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Nhưng đi được một hồi bỗng nhiên đôi chân không thể đi được nữa, lúc đó trong bụng bà Trần cảm thấy rất lỳ lạ. Tại sao mà đôi chân bỗng nhiên không đi được nữa, liền cố gắng tự phấn chấn tinh thần lên, khom lưng xuống tay mò xuống đất. Bà Trần dùng tay mò dưới đất mới hay lại qua một lần đại nạn nữa, hóa ra chỉ cần tiếp tục đi về phía trước một bước nữa thì là rớt xuống một khe suối lớn rồi! Lắng tai nghe kỹ tiếng nước chảy trong khe rất là mạnh. Bà Trần lúc đó càng cảm tạ A Di Đà Phật đã từ bi cứu giúp, nếu như không phải hai chân bất động, đi tiếp một bước nữa thì rơi vào trong khe, bị nước cuốn trôi rồi, cả người nhà cũng không ai hay biết, sẽ mãi mãi ngậm hờn nơi chín suối. Lúc bấy giờ ở khe suối đó dùng miếng ván nhỏ làm cầu, bà Trần liền dùng cả hai tay hai chân như móc câu mà bò qua, xong mới thở ra một hơi nhẹ nhõm, thẳng lưng lên tiếp tục chạy về phía trước, liên tục ba lần, hễ đến bên bờ khe, thì chân tự động dừng bước, thật là không thể nghĩ bàn! Sai một bước không phải là chết đuối mà là té chết (bể đầu gãy xương…) do vì ban đêm nhìn không thấy rõ, nên bà Trần về đến nhà là đã 12 giờ khuya!
Ngày hôm sau bà Trần trở lại gánh gánh củi quăng mất hồi tối, bà đã hỏi người ở trạm xe, bóng đen hồi tối qua nhìn thấy rốt cuộc là cái gì? Người ta liền nói với bà ta: Hồi trước có một người bị tai nạn chết ngay chỗ đó, có lẽ âm hồn không tan, nên thường hiện ra nơi đó. Câu chuyện trên đây là do Pháp Viên và cô Hoàng Chiêu Anh đến dự khánh thành liên xã Đài Đông và tham gia giảng diễn năm ngày, nghe được từ chính miệng bà Trần kể lại vào mồng 1 tháng giêng năm Dân quốc thứ 48.
Trích từ Những Chuyện Niệm Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe
Tác Giả: Lâm Khán Trị
Dịch Giả: Thích Hoằng Chí
Posted by Đường Về Cực Lạc on Tháng Mười 28, 2015 at 7:16 sáng
CÔ HỒN CÓ TÁNH LINH THEO NGƯỜI NGHE KINH:
Lại nói một chuyện về cô Chơn. Cô Chơn tâm địa quang minh chính đại. Tục ngữ nói “Tâm chánh không sợ tà”.
Vào hạ tuần tháng 8 bảy năm trước, một buổi tối cô Chơn chạy chiếc xe đạp muốn đến Vụ Phong nghe kinh. Nửa đường đang chạy thì thấy xa xa có một người to lớn mặc đồ đen, chặn ngay giữa đường không đi. Cô Chơn cũng không sợ, cứ nhắm nó mà đi thẳng tới, lúc đến gần lại biến mất không thấy nữa. Cô Chơn mặc dù lúc đó không sợ, nhưng lông tóc dựng đứng lên hết, trong khoảnh khắc chiếc xe đạp phát ra tiếng nổ lớn rồi nằm im. Cô Chơn nhảy xuống xe, quan sát xem cái xe không có hư gì cả, liền mở miệng mắng rằng: “Ngươi là loại người gì? Ta với ngươi không oán không cừu, ta bây giờ phải đi Vụ Phong nghe kinh, thời gian 7 giờ 30 sắp đến rồi, bản thân nhà ngươi ngu si không biết học Phật, lại còn ở đây quấy phá người ta, tội lỗi rất lớn, muôn năm không được siêu sanh! Hiện nay ở Vụ Phong Bố giáo sở, Khán Trị sư tỷ đang giảng Kinh Địa Tạng, nhà ngươi ngoan ngoãn đi theo ta nghe kinh, cũng có thể khai phát được trí huệ, lìa khổ được vui”.
Cô Chơn sau khi nói xong mấy câu trên, tức thời lên xe. Nói cũng lạ, dường như chiếc xe tự nó chạy được, cũng không dùng chân đạp, xe chạy như bay đến Vụ Phong, thường thì cũng phải hơn 20 phút mới có thể đến, bây giờ chưa đến 10 phút mà đã đến rồi… Cô Chơn liền biết có quỷ hồn cùng đến, xuống xe sắp vào cửa tường liền nói: “Này cô hồn, đã đến Vụ Phong Bố giáo sở rồi, nhà ngươi từ cửa sắt này mà đi vào”. Vào đến đại điện lại nói: “Này cô hồn, bây giờ bắt đầu giảng kinh, nhà ngươi đi theo ta vào bên trong nghe kinh”. Cô Chơn bảo với tôi, từ đó về sau trong mấy năm nay, người đi đường qua lại chỗ đó, không còn thấy gì nữa hết (có lẽ được siêu rồi).
Mấy chuyện ở trên đây đều là chính miệng cô Chơn nói với tôi. Bút giả viết đến đây thật là cảm khái vô lượng, cô Chơn có thể nói là đấng trượng phu trong giới nữ, tinh thần quả là vĩ đại, trí dũng gồm đủ.
Trích từ Những Chuyện Niệm Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe
Tác Giả: Lâm Khán Trị
Dịch Giả: Thích Hoằng Chí
Posted by Đường Về Cực Lạc on Tháng Mười 28, 2015 at 7:17 sáng
Người Niệm Phật Không Mong Cầu Phước Báo Thế Gian
Công phu niệm Phật bền bỉ mãi giống như ép mè, tiếng chày giã càng thêm mạnh mẽ cho đến lúc ra dầu; thuyền khi gặp sóng to, tiếng mái chèo càng thêm kiên quyết; vạt nước sôi ở phía sau, ao sen ở phía trước, tuy có ngàn vạn người ngăn trở ta niệm Phật, thề không thối lui, lâu ngày dài tháng tất được lòng từ bi của Phật âm thầm trợ giúp, chướng duyên tiêu tan, thanh tịnh duyên thành tựu. Phật chẳng phụ lòng người, ắt làm mãn nguyện chúng sanh.
Các vị Thiện nhân! Nay đã thật tâm niệm Phật thì phải phát nguyện cầu sanh Tịnh độ, không thể chỉ mong cầu phước báo. Người đời nghe câu nói này chưa khỏi ngạc nhiên kinh lạ. Họ nghĩ tu hành vốn là mong cầu phước, niệm Phật được phước chính là việc vừa lòng thỏa ý, tại sao lại không muốn phước báo?
Nếu nói Tịnh độ, lẽ nào bọn phàm phu chúng ta có thể vãng sanh? Huống chi công hạnh cạn mỏng làm gì được vãng sanh? Các vị thiện nhân! Những tư tưởng ấy rất sai lầm, phải biết phước báo có lúc hết. Thử xem người đời, hoặc ông bà giàu có, con cháu nghèo hèn, hoặc lúc trẻ giàu có, đến già nghèo hèn, đâu không phải là phước báo có khi hết. Không chỉ vậy, đời nay tu hành đời thứ hai hưởng phước, đời thứ hai không tu đời thứ ba lại chịu khổ.
Hoặc có súc sanh lúc quả báo hết mới được thân người, vừa được làm người bị phạm lỗi lầm lại rơi xuống loài súc sanh. Lên xuống bất định cho nên gọi là nổi chìm trong biển khổ.
Không chỉ như thế, hoặc người có tài sản nhưng không con; hoặc có con mà không có tài sản; hoặc được sống lâu nhưng lại lẻ loi nghèo khổ; hoặc thông minh nhưng chết sớm; hoặc giàu có mà ngu dốt; hoặc sang trọng mà bị tai ương; hoặc tự thân ít bệnh mà quyến thuộc điêu linh; hoặc gia đình tạm an, thân mình bệnh tật. Có cái này lại thiếu cái kia, cho nên gọi cõi này là thế giới không hoàn mỹ. Ông cho rằng phước báo là cái vừa lòng thích ý hay sao?
Nếu sanh về Tây Phương thì không như thế. Hoa sen hóa sanh, thân thể thanh khiết, tướng mạo đoan chánh, trong tâm đầy đủ trí tuệ không có phiền não, y phục và thức ăn tự nhiên hóa hiện, không bệnh không già, theo Phật tự tại tiêu diêu an dưỡng. Tuổi thọ của con người ở đó lại vô lượng, từ đây tiến thẳng đến chỗ thành Phật đạo không còn đọa lạc. Ngoài ra biết bao niềm vui vẻ nói không thể hết. Những điều trên là do chính Đức Phật nói trong kinh Di Đà và các kinh điển Đại thừa.
Do đây mà xét, sự giàu sang ở thế gian trong chớp mắt liền trở thành không; niềm vui vẻ nơi Tây Phương vô cùng vô tận. Sao không gấp rút phát nguyện cầu vãng sanh?
Nếu nói ta là phàm phu e không thể vãng sanh, nên biết Đức Phật Như Lai chính vì bọn phàm phu chúng ta nghiệp chướng sâu dày, trí tuệ cạn mỏng, nếu tu pháp môn khác đều là ra khỏi ba cõi theo chiều dọc, e trong một đời không thể thoát khỏi sanh tử. Thế nên đặc biệt mở ra một pháp môn niệm Phật, mong người vãng sanh để mãn tâm nguyện độ hết chúng sanh của Ngài. Tại sao ông lại tự vứt bỏ mình, chẳng suy tư để phấn phát, nỡ cô phụ tấm lòng từ bi của Chư Phật như thế?
Nếu cho rằng công hạnh cạn mỏng, nên biết Vạn đức Hồng danh không có điều thiện nào mà chẳng thâu nhiếp, không có điều ác nào mà chẳng tiêu diệt. Đây chính là công hạnh lớn cùng cực, sâu cùng cực, rộng cùng cực, viên mãn cùng cực. Cho nên niệm Phật một tiếng có thể diệt rừ vô lượng tội nặng trong tám mươi ức kiếp; không thể xem niệm Phật là việc tầm thường, chẳng có gì đặc biệt.
Phải biết người niệm Phật hoàn toàn nương vào sự nhiếp thọ nơi nguyện lực đại bi của Phật A Di Đà. Ban đầu Phật A Di Đà có bốn mươi tám nguyện, mỗi nguyện mỗi nguyện đều là vì cứu độ mọi người. Nguyện thứ 18 nói rằng: “ Khi Tôi thành Phật, chư Thiên nhân dân trong vô lượng thế giới khắp mười phương, chí tâm tin tưởng ưa thích, muốn sanh về nước Tôi, niệm danh hiệu Tôi mười lần ắt liền vãng sanh, chỉ trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, chê bai chánh pháp. Nếu không được như nguyện này, Tôi quyết không thành Phật”.
Do Đức Phật có đại nguyện này nên khi nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà thì trong ao thất bảo ở Tây Phương liền mọc một đóa hoa sen, nêu tên người ấy, ngày sau thác sanh trong đó, lúc lâm chung Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát Quan Ấm Thế Chí hiện thân tiếp dẫn.
Từ xưa đến nay, người được vãng sanh không thể tính hết. Hoặc có người dự biết trước ngày giờ lâm chung và đến lúc ấy tự nói thấy Phật Bồ Tát liền an nhiên mà qua đời. Hoặc có những người bên cạnh đồng thấy áng sáng lành, cùng nghe mùi hương lạ và tiếng nhạc du dương. Hoàn toàn chẳng phải không có chứng tích, những việc ấy đều có ghi trong các truyện vãng sanh.
Hiện nay người niệm Phật chân thật khẩn thiết rất ít, cho nên vãng sanh không nhiều. Mọi người ít thấy điềm lành vãng sanh, do đó không tin sâu rộng, trăm dặm có một người. Người trong cả trăm dặm ngàn dặm được vãng sanh này đâu chỉ là phàm phu? Mười năm có một người, năm năm có một người, những người vãng sanh trong mười năm, năm năm này đâu chỉ là kẻ phàm phu? Những người vãng sanh này lẽ nào đều có công hạnh trong ba A tăng kỳ kiếp hay sao? Chẳng qua chỉ là họ có thể dụng tâm chân thật khẩn thiết mà thôi!
Trong kinh A Di Đà nói rõ:
“Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe nói về Phật A Di Đà liền chấp trì danh hiệu hoặc một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn động, liền vãng sanh về thế giới Cực Lạc”.
Đó đều là do đại lực đại nguyện của Phật A Di Đà. Ví như một chiếc thuyền lớn, chẳng luận là vật gì chỉ cần để lên thuyền thì được đến bờ bên kia. Cho nên người xưa nói: “Học đạo các môn khác như kiến bò lên non cao, niệm Phật cầu vãng sanh tợ đi thuyền thuận nước”. Đi thuyền thuận nước lại gặp gió xuôi, đâu chẳng phải đã nhanh chóng còn thêm nhanh chóng, đó chính là đạo lý nhờ vào nguyện lực của Phật.
Các vị Thiện nhân! Thuận nước, thuận gió là việc sau khi đã lên thuyền. Nếu ông chẳng chịu lên thuyền thì biết làm thế nào? Cho nên chính mình cần phải có nguyện lực chuyên thiết.
Hiện nay người niệm Phật hoặc vì bệnh khổ mà phát tâm; hoặc vì bảo hộ gia đình; hoặc vì hiện tại tiêu trừ tai nạn, kéo dài tuổi thọ; hoặc vì vọng cầu giàu sang ở đời sau, ít có ai vì việc lớn sanh tử mà cầu vãng sanh Tịnh độ.
Như người đi sang phương Nam hay qua phía Bắc, phải có phương hướng dự định. Dự định sang phương Nam, khi ra khỏi cửa quyết chẳng đi về phía Bắc. Nay ông không phát nguyện cầu sanh Tịnh độ, đến lúc lâm chung làm sao được vãng sanh?
Đó là nói người không phát nguyện cầu vãng sanh. Lại còn có người phát nguyện nhưng không chuyên thiết, nên miệng cũng nói nguyện sanh Tây Phương, trong lòng lại luôn tham đắm vật dục. Tuy ngẫu nhiên phát nguyện cầu sanh nhưng hoàn toàn chẳng thể trọn đời như một ngày, được sanh thì tốt không vãng sanh thì thôi, hoàn toàn chẳng có công phu chi thiết thật, như thế đâu khác gì không phát nguyện.
Than ôi! Chúng sanh trong thế giới ác trược tham quyến phồn hoa, cam tâm sa đọa, chẳng cầu giải thoát, thật không biết phải làm sao?
Nói chung, pháp môn niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn, sự vui vẻ ở Tây Phương không có gì so sánh được. Niệm Phật cầu vãng sanh chính là phù hợp với tâm Phật. Nguyện sanh thì vãng sanh, không nguyện thì không vãng sanh. Nguyện không chuyên thiết thì cũng như không nguyện. Chẳng phải Phật không độ, chỉ vì ông không quyết chí.
Nếu đem pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này mà tìm cầu phước báo nhỏ bé ở thế gian, ví như lấy hạt minh châu bắn chim sẽ. Thật là đáng tiếc thay!
Trích Khuyến Tu Tịnh Độ Thiết Yếu
Người dịch: Thích Minh Thành
Soạn thuật: Chân Ích Nguyện