Chuyện Niệm Phật Cảm Ứng 1

Lời người dịch:

Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ ([1]) và Kinh Đại Tập ([1]) là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Chư Tổ như các ngài Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Thiên Như, Liên Trì, Ấn Quang, v.v… cũng đều đề xướng tuyên dương pháp môn Tịnh độ. Và trên thực tế chúng ta thấy hành giả tu Tịnh độ ngày một nhiều. Thế nhưng dịch giả nhận thấy những sách viết về Tịnh độ thì dường như quá ít! Đã thế, mà trong số ít ỏi đó lại còn có những sách nội dung chẳng những không làm tăng trưởng niềm tin nơi hành giả, mà còn gây cho hành giả thêm hoang mang. May thay, dịch giả được đại đức Thích Minh Quang hiện đang du học ở Đài Loan, trong một chuyến về nước tặng cho quyển “Những Truyện Niệm Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe” này, dịch giả xem thấy rất hay, cảm thấy quyển sách này nếu được dịch ra chữ Việt và in ấn lưu hành thì có thể giúp tăng trưởng tín tâm nơi hành giả tu Tịnh độ rất nhiều, nên dịch giả không ngại vốn liếng Hán học còn nông cạn và văn từ tiếng Việt cũng rất vụng về, mạnh dạn phát tâm dịch quyển sách này ra chữ Việt, để các hành giả tu Tịnh nghiệp cùng xem, với ước nguyện thông qua quyển sách nhỏ này, mọi người càng thâm tín hơn nơi pháp môn thù thắng mà mình đã chọn.

Ngưỡng mong trên Hòa Thượng bổn sư (Hòa Thượng thượng Trí hạ Tịnh) chứng minh, cùng toàn thể chư liên hữu hoan hỷ với pháp sự này.

Đây là lần đầu tiên dịch giả mạo muội cầm bút dịch một quyển sách Phật ra mắt đại chúng, chắc chắn sẽ có rất nhiều sai sót. Ngưỡng mong được các bậc cao minh chỉ giáo.

Nam mô A Di Đà Phật
Mùa Hạ năm Tân Tỵ
Dịch giả cẩn bút
Tỳ kheo Thích Hoằng Chí

25 responses to this post.

  1. 1. MỘT CÂU PHẬT HIỆU KHỞI TỬ HỒI SINH

    Có một vị liên hữu ở làng Bắc Đồn, ngoại ô của Đài Trung tên là Lại Lâm Trị, vì chồng của bà tên là Tuấn, cho nên mọi người đều gọi bà là thím Tuấn, năm nay bà sáu mươi bốn tuổi. Mỗi thứ tư và thứ bảy bà đều đến thư viện và Liên xã chùa Từ Quang nghe thuyết pháp; hai thời khóa tụng sáng, tối chỉ biết niệm Phật. Bà có một người con gái tên là Lan, năm mười tám tuổi đã lấy chồng và sanh được một đứa con trai tên là Đạt Tử. Mười ba năm trước lúc Đạt Tử vừa mới ba tuổi, một hôm đi chơi trước cổng, bỗng nhiên có một con heo nái chạy lại đụng ngã Đạt Tử, từ hôm đó trở đi bị sốt cao, lại hôn mê bất tỉnh, theo chẩn đoán của bác sĩ là viêm màng não. Trung y, Tây y, thuốc thang gì đều vô hiệu, hai mươi ngày sau thì chết! Vào khoảng 8 giờ tối là dứt thở, người trong nhà để Đạt Tử trên nền gạch trong phòng khách dùng một bao vải rách đắp lên, giấy khai tử mọi việc chuẩn bị xong, dự định sáng mai đem đi chôn.

    Thím Tuấn nhìn thấy đứa cháu chết đi, vô cùng đau lòng, chiều tối đó đến thời khóa, bà vẫn cứ lên niệm Phật như thường, nhưng tình cảm đau thương khó mà ngăn chận. Bà vừa niệm Phật vừa khóc, hướng lên Phật Bồ Tát nói rằng: “Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát! Các Ngài sao không phò hộ cho con? Vùng này chỉ có mình con tin Phật, niệm Phật, vậy mà người ta còn cười con, đã nghèo mà còn bày đặt tin Phật, niệm Phật cái gì? Sau này nhất định họ càng cười con! Phật, Bồ Tát ơi! Các Ngài sao không phò hộ cho con?”. Thím Tuấn lại khóc to lên một hồi, rồi nặng nề lên giường đi ngủ, nhưng nhớ lại đứa cháu dễ thương bị chết đi, bà lăn qua lăn lại hoài mà không ngủ được. Vào khoảng 4 giờ hơn, bỗng nhiên thấy một đạo kim sắc quang minh (ánh sáng màu vàng) từ trong hư không xẹt thẳng vào trong nhà khách, ánh sáng rực rỡ không thể nghĩ bàn. Trong khoảnh khắc, bỗng nhiên nghe được tiếng của Đạt Tử hơn hai mươi ngày không biết khóc và tay chân cứng còng khóc ré lên! Thím Tuấn và con gái là A Lan, vội vã tới xem, thấy hai tay của Đạt Tử đã kéo cái bao vải ra, hai mẹ con vừa mừng vừa sợ, bế nó lên và rót cho nó một tí nước, thì nó cũng uống được, thật là không thể nghĩ bàn. Sáng sớm hôm sau, hai mẹ con lại bồng Đạt Tử đi Bắc Đồn cho bác sĩ khám, bác sĩ cũng thấy kỳ lạ, làm sao chết rồi mà sống lại? Bảo hai mẹ con nhanh chóng đưa lên bệnh viện tỉnh Đài Trung. Lúc đó thím Tuấn yêu cầu tôi phụ giúp bà đưa cháu đi bệnh viện nhập viện!

    Đạt Tử liền được đưa đi bệnh viện ở Đài Trung vào Khoa Nhi. Nhưng khi thím Tuấn nhìn thấy mấy chục đứa nhỏ bị viêm màng não trong bệnh viện bị biến dạng kỳ quái: có đứa mắt lệch, có đứa miệng méo, có đứa tay chân không động đậy gì hết, trong lòng rất là buồn. Bà hỏi thăm thì đa số nhập viện từ sáu tháng đến hai năm, sức khỏe vẫn chưa bình phục, mà bác sĩ chẩn đoán cho Đạt Tử, tối thiểu phải nằm viện bốn tháng, còn khả năng hết bệnh hay không cũng không dám chắc! Thím Tuấn mới nói với tôi: “Về tình hình kinh tế nhà tôi làm sao có thể nằm viện lâu đến bốn tháng được?!”. Tôi liền khuyên bà rằng: “Thím Tuấn à! Thím thực là cả đời khôn ngoan, lại đi tính dại một lúc! Đạt Tử là nhờ phước ấm của thím mà được Phật, Bồ Tát phò hộ, mới chết mà được sống lại, tôi nghĩ cháu nhất định sẽ khỏi, chỉ cần chúng ta vừa cố hết sức trị liệu cho cháu, vừa thành khẩn cầu Phật, Bồ Tát cứu giúp, rồi mới phó mặc mạng cho trời!”. Thím Tuấn vẫn còn do dự chưa quyết định, rốt cuộc tôi lại khuyên bà: “Thôi tạm nằm hai tuần đi, khỏe hay không cũng xuất viện, nhưng thím cần ở lại bên cạnh Đạt Tử niệm Phật không được gián đoạn”. Thím Tuấn cuối cùng bị tôi thuyết phục, bèn làm thủ tục nằm viện điều trị!

    Đạt Tử nằm viện trị liệu được tốt đẹp, sốt cao đã lui dần; tròng đen con ngươi vốn đã bị lật vào trong chỉ còn thấy tròng trắng nhìn không thấy người, cũng ngày một khôi phục như cũ; dần dần cũng đã nói chuyện lại được, xưng hô với người thân cũng từ từ rõ ràng lại. Khoảng một tuần thím Tuấn muốn về nhà, liền kêu A Lan lại thay thế cho bà chăm sóc Đạt Tử. Nhưng có điều kỳ lạ là thím Tuấn vừa ra khỏi cổng bệnh viện, thì bệnh của Đạt Tử lại nặng trở lại, trong miệng nổi lên hai cái lưỡi và trạng thái hôn mê cũng trở lại, còn chảy máu đầy cả miệng, bác sĩ liền dùng bông gòn nhét vào giữa hai hàm răng. Thím Tuấn vừa về đến trong nhà, con rể bà liền nói: “Má à! Má về làm gì? Nhanh chóng đi vào bệnh viện lại đi! Nhanh đi! Nhanh đi!”. Thím Tuấn trở lại bệnh viện, vừa thấy biến chứng của cháu như thế liền vội ngồi xuống bên mình cháu, chí thành niệm Phật. Kỳ tích lại phát sanh lần nữa, thật là vạn đức hồng danh linh nghiệm không gì bằng! Bà niệm được nửa giờ, Đạt Tử đã thở nhè nhẹ đi vào giấc ngủ, lúc thức dậy, chứng bệnh hai lưỡi đã hết, thật là Phật pháp vô biên. Thím Tuấn đi về chỉ có ba tiếng đồng hồ mà bệnh tình đã biến đổi xấu nghiêm trọng như thế. Khi trở lại, vừa qua niệm Phật thì bệnh càng lúc càng hồi phục bình thường. Đến ngày thứ mười ba, bác sĩ tuyên bố ngày mai có thể xuất viện. Mọi người đang vui mừng, nhưng vào lúc nửa đêm bệnh của Đạt Tử lại lần nữa biến đổi xấu nghiêm trọng, phát sốt rất cao, trong khoảnh khắc thím Tuấn vô cùng hốt hoảng, nhứt thời không có cách gì, bèn lấy mười đồng kêu A Lan đi ra chợ tìm thầy tướng số đưa ngày sinh tháng đẻ của Đạt Tử cho thầy đoán xem số mạng của nó có tới số chết chưa? A Lan đi xem số mạng về nói: “Trong số mạng của Đạt Tử mang chứng tê liệt, năm ba tuổi chắc chắn bị phát sởi mà chết!”. Lúc đó bác sĩ và y tá lại đến chẩn bệnh, lột hết quần áo của Đạt Tử ra xem, phía sau lưng phát hiện đầy những chấm đỏ nhỏ, liền lắc đầu nói: “Đáng tiếc! Đáng tiếc! Thằng bé này đột nhiên lại phát sởi, sau khi bị viêm màng não lại bị sởi rất dễ dẫn đến sưng phổi. Nếu như thế, thì thật không còn cách trị!”. Thím Tuấn và A Lan trước đã nghe đoán số mạng sẽ chết, nay bác sĩ cũng nói sẽ chết càng đau lòng vô cùng! Lúc đó lại hối hận là không nên vào viện, trong hai tuần đã tốn hết mấy ngàn đồng. Lúc đó tôi cũng ở kế bên, liền nói với họ rằng: “Có lẽ Đức Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi thương xót cho bà là người đệ tử trung thật, mới đặc biệt gia bị, khiến Đạt Tử trước khi xuất viện tái phát sởi, ở trong bệnh viện y dược dễ dàng thuận tiện, chớ nếu sau khi xuất viện về nhà rồi mà tái phát sởi thì càng nguy hiểm hơn! Không tin, ở lại thêm một tuần lễ nữa liền có thể bình an xuất viện. Bây giờ bà phải khẩn thiết hơn nữa ở bên cạnh nó niệm Phật, không được gián đoạn, không nên nản lòng!”. Lúc đó tôi cũng chỉ an ủi họ như thế thôi, thật ra tôi còn sốt ruột hơn họ nữa!

    Một tuần lễ trôi qua, trải qua sự trị liệu rất thuận lợi, quả nhiên Đạt Tử đã vượt qua cửa ải tử vong một cách an nhiên, có thể xuất viện được rồi. Nhưng theo nguyên tắc của bệnh viện, người bệnh muốn xuất viện, nhất định phải qua bác sĩ tái khám một lần. Khi bác sĩ khám lại cho Đạt Tử, miệng nói luôn không ngớt: “Kỳ lạ! Kỳ lạ! Làm sao mà bệnh trạng nghiêm trọng quá sức như thế, lại mau khỏi như vậy?”. Liền hỏi thím Tuấn: “Trong miệng bà không ngớt niệm những gì vậy?”. Thím Tuấn nói: “Niệm A Di Đà Phật”. Bác sĩ nghe xong nói: “Mẹ tôi cũng là người ăn chay trường hai, ba chục năm nay rồi, vì sao không biết niệm A Di Đà Phật?”. Đáng tiếc thím Tuấn không biết trả lời, lỡ mất một cơ hội! Lại nói về Đạt Tử, từ khi xuất viện về nhà, sức khỏe cùng với những đứa trẻ bình thường khác mạnh khỏe như nhau, nhưng hay hỏi bà ngoại: “Con còn nhỏ như thế này tại sao biết tự mình ăn cơm, lại biết nói chuyện, biết đi?”. (có lẽ bị ảnh hưởng viêm não nên hơi bị thần kinh – dịch giả). Thím Tuấn liền đổi tên nó lại là “A Châu”

    Thời gian qua như tên, mới chớp mắt, A Châu năm nay đã mười bảy tuổi, anh ta thường ngày làm việc rất siêng năng, lại hiếu thuận với người lớn, là một thanh niên tốt có lễ giáo nhân nghĩa.

    Cuối cùng chúng ta hãy nghiên cứu một chút, một câu Thánh hiệu này thế mà hơn khoa học. Hãy xem các bác sĩ đã nghiên cứu khoa học mấy chục năm họ chẩn đoán: nếu như thằng nhỏ nằm viện ít nhất phải bốn tháng, còn khả năng khỏi hay không còn không dám chắc! Và một vị khác có khả năng bói bát tự, khéo đoán về âm dương, đoán là chỉ sống có ba tuổi bị ban sởi mà chết, rốt cuộc bị câu Thánh hiệu A Di Đà Phật mà tiêu tai giải nạn, gặp dữ hóa lành. Nhưng có lẽ có người sẽ hoài nghi: “Niệm Phật thì không chết ư?”. Đương nhiên tôi không dám nói quả quyết như thế, do vì đời người có sanh ắt có tử. Nhưng trong kinh có nói rằng: “Chí tâm niệm một câu A Di Đà Phật có thể tiêu diệt tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp”. Chỉ cần xem người niệm Phật có phải là “chí tâm” niệm hay không? Nếu như không chí tâm, niệm Phật không có cảm ứng, không tự trách mình, lại đi trách ai đây?

  2. 2. BỒ TÁT THỊ HIỆN KHUYẾN HÓA NIỆM PHẬT

    Đầu tuần tháng 5 năm ngoái, con gái của thím Tuấn là A Lan, do vì đẻ non nên sức khỏe rất yếu, một hôm bị băng huyết té ngã trên giường hôn mê, thím Tuấn tưởng cô ta ngủ, không để ý. Vài giờ sau tỉnh dậy, cô nói với mẹ: “Con vừa rồi bị hôn mê, thần thức sợ sệt đi đến một nơi rậm rạp um tùm, dường như rất xa, nhưng con vẫn cứ đi mãi về phía trước, giữa đường gặp một người nữ trẻ tuổi, rất là đoan chánh trang nghiêm, vừa chặn con lại, lại thêm duỗi tay đẩy con một cái té lộn nhào, lúc bò dậy con liền mắng cô ta: “Ngươi… cái cô gái này sao mà vô cớ xô ta vậy? Cô tên là gì?”. Cô gái đó liền nói với con rằng: “Chỗ này không phải chỗ ngươi đến, mau mau về đi, ngươi về nhà sẽ biết tên ta”. Nói như thế xong, cô liền cung kính chắp tay lại, miệng niệm: “Nam mô A Di Đà Phật”. Lúc đó con liền tỉnh dậy”. Thím Tuấn nghe xong liền nói với con gái rằng: “Cô gái đó e rằng chính là Quán Thế Âm Bồ Tát biến hóa ra để cứu con đó. Có khả năng là Đức Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát rồi!”.

    Từ đó về sau sức khỏe của A Lan hồi phục mạnh khỏe như thường. Sau việc đó, thím Tuấn đến Liên Xã thăm tôi và kể cho nghe chuyện của A Lan trải qua và còn hỏi tôi rằng: “Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát cũng phải chắp tay niệm A Di Đà Phật? Quán Thế Âm Bồ Tát không phải là một trong Tam Thánh của Tây phương Cực Lạc thế giới sao?”. Tôi liền nói với bà ta rằng: “Quán Thế Âm Bồ Tát chắp tay niệm Phật là dạy cho A Lan niệm, không phải ngài tự mình cần phải niệm. Đây chính là dùng tự bản thân làm khuôn phép dạy cho người (thân giáo) muốn khuyến hóa A Lan con gái của bà, không niệm Phật làm sao có thể thoát ly được Ta Bà khổ hải, khỏi vào trong vòng luân hồi?”. Từ đó con gái của thím Tuấn cũng bắt đầu niệm Phật.

  3. 3. PHẬT A DI ĐÀ PHÓNG QUANG GIA BỊ

    Đây là một câu chuyện thật xảy ra vào ngày mồng 9 tháng 11 ÂL năm Dân Quốc thứ 52 (Dân Quốc sơ niên là 1911) do niệm một câu đại chú vương vạn đức hồng danh mà được cảm ứng không thể nghĩ bàn. Một phụ nữ họ Lại ở trong vùng nông thôn mới do thành phố Đài Trung hỗ trợ, năm nay 54 tuổi, bà ta đã từng dẫn đứa cháu mới 5 tuổi của bà sang một vị liên hữu tên Lý Kim Phương đối diện với nhà bà để nhờ gia trì chú Đại Bi “thâu cảnh”. Gia trì chú Đại Bi “thâu cảnh” là một phương pháp rất hiệu nghiệm, cũng là một pháp môn phương tiện hay, khéo khuyên người niệm Phật.

    Buổi trưa mồng 9 hôm đó, bà họ Lại đang làm việc trong nhà bếp, bỗng dưng đầu bà cúi gục xuống, toàn thân co giật. Đứa cháu 5 tuổi đó thế mà rất thông minh, thấy tình trạng như thế, vội vã chạy sang nhà đối diện lớn tiếng kêu lên: “Bà cụ ăn chay ơi! Bà cụ ăn chay ơi! Mau qua giúp bà của con “thâu cảnh”. Vị liên hữu Lý Kim Phương lập tức đến nhà bếp bà Lại, vừa xem, bà giựt mình hốt hoảng, chỉ thấy bà Lại hai con mắt trắng dờ, đã hôn mê bất tỉnh nhân sự, bà mẹ chồng hơn 70 tuổi đang đỡ một bên hông phải của bà ta; đứa con trai lớn đang đỡ hông bên trái, hai người đều sợ đến mức chỉ biết kêu la. Vị liên hữu Lý Kim Phương bảo họ cần phải trấn tỉnh và mọi người phải cùng nhau niệm A Di Đà Phật. Như thế niệm được khoảng 20 phút bà Lại đang trong hôn mê thở ra một hơi, mới mở miệng nói: “Ông ta đứng ở kia kìa, bảo tôi đi với ông ta”. Vị liên hữu Kim Phương hỏi bà ta: “Ông ta là ai vậy?”. Bà Lại đáp: “Là ông Lâm chồng tôi”. Vị liên hữu Kim Phương vừa cao giọng niệm Phật vừa nói với hồn quỷ rằng: “Ông Lâm à! Ông không nên dẫn bà Lại đi, mà nên cố gắng phò hộ sức khỏe của bà được bình an, vì bà ấy là một người con dâu hiếu thảo, trên thì lo hầu hạ mẹ của ông, dưới còn có con nhỏ chưa trưởng thành, cần phải nuôi dạy, ông nhất thiết không được dẫn bà ấy đi!”. Bà mẹ chồng của bà Lại lúc đó cũng nói: “Con à! Từ sau khi con qua đời, vợ con và mẹ cùng nương nhau mà sống, con không được dẫn nó đi, con nếu dẫn nó đi, để lại mẹ già cả thế này và mấy đứa nhỏ còn nhỏ như thế kia, làm sao mà sống đây? Như vậy con chính là đại bất hiếu!”. Vị liên hữu Kim Phương lần nữa lại khuyên hồn quỷ: “Ông Lâm à! Ông phải nên niệm A Di Đà Phật phát nguyện cầu sanh Tây phương, mới có lối thoát, luân hồi trong sáu đường là cái khổ nói không cùng. Bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật, ông cũng phải phát tâm niệm A Di Đà Phật theo!”. Nói xong liền niệm “A Di Đà Phật”, niệm liên tục không dừng. Niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ, thì nghe bà Lại bắt đầu nói: “Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, chồng tôi cũng đi rồi”. Vị liên hữu Kim Phương hỏi bà ta: “Bà hỏi thử xem, Tam Tiên tên là gì?”. Bà Lại nói: “Họ nói là Phật A Di Đà phóng quang gia bị”. Bà Lại đang trong hôn mê tức thời tỉnh táo trở lại, chưa đầy mấy ngày sức khỏe của bà bình an vô sự (Tam Tiên tức là Tam Tôn, do vì bà Lại không phải tín đồ chính thức của Phật giáo, nên không biết tôn xưng Tam Tôn). Bà Lại lần này bị sự nguy khốn đó, cũng không phải không có nguyên nhân, việc xong bà mẹ chồng của bà ta nói với vị liên hữu Kim Phương rằng: “Thằng Lâm con tôi sau khi kết hôn với con dâu họ Lại này chưa từng có gây gổ với nhau lần nào, thật là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Từ ba năm trước khi thằng Lâm chết rồi, con Lại ngày ngày đều thương nhớ chồng. Mười mấy hôm trước nó một mình đi ra mộ dọn dẹp, cúng bái, khóc lóc thảm thiết một trận nữa, cho nên bắt đầu từ hôm đó, đêm nào cũng mộng thấy hồn chồng về trong nhà. Điều kỳ lạ là không chỉ một mình nó mộng thấy, trong nhà lớn nhỏ đều mộng thấy cả!”.

    Vị liên hữu Lý Kim Phương có hơi không hiểu: Tại sao một người đã chết ba năm rồi, thần thức còn ôm giữ trong mộ? Riêng tôi, tôi cho rằng việc này có hai cách giải thích:

    Một là ông Lâm này lúc còn sống, “chấp ngã” rất nặng cho nên sau khi chết đọa vào quỷ đạo vẫn lưu luyến cái thi thể cũ của mình như trước mà trở thành loài quỷ giữ xác!

    Hai là lúc bà Lại đi ra mộ quét dọn cúng bái, thì những cô hồn ngạ quỷ ở gần mộ đó biến hóa ra hình tướng của ông Lâm theo bà ta về nhà làm loạn! Căn cứ theo trong Kinh Địa Tạng có nói: “Cõi Diêm Phù Đề này, người hành thiện, lúc lâm chung, cũng có trăm ngàn quỷ thần ác đạo hoặc biến ra làm cha mẹ, nhẫn đến biến ra những bà con quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến vào đường ác, huống nữa là người lúc sống vốn tạo ác nghiệp.

    Hai cách giải thích trên đây, không biết thuộc về cách nào? Những vị độc giả thông minh, các ngài có thể giải đáp cho tôi không?

  4. 4. MẸ GIÀ NIỆM PHẬT, CON ĐƯỢC TAI QUA NẠN KHỎI

    Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm trưởng ban Kim Cang trong Liên Xã ở Đài Trung là một vị đệ tử Phật phát tâm Bồ Tát rất thành khẩn. Nhà của bà ở số 31 đường Nam Kinh trong nội thành, chẳng những làm cho cả gia đình theo Phật mà còn độ được cả nhà của mẹ mình. Nhà của mẹ bà ở trên núi làng Minh Tú trấn Sa Lộc. Vào ngày mồng 8 tháng 9, tám năm về trước bắt đầu mời các vị hoằng pháp trong Liên Xã đến đó tuyên giảng chánh pháp, khuyên người niệm Phật. Trong nhà bà thờ phụng tượng Tây phương Tam Thánh, đặt tên là “Tín Nghĩa Đường”, lại còn lấy ngày mồng 8 tháng 9 hằng năm làm ngày lễ kỷ niệm định kỳ. Những tín đồ ở gần đấy, mỗi lần đến ngày đó đều sắm sửa hương hoa quả phẩm đến Tín Nghĩa Đường lễ Phật, nghe pháp. Ngày mồng 8 tháng 9 năm Dân Quốc thứ 52, học nhơn (lời khiêm xưng của tác giả sách này: Khán Trị) được mời đến đó giảng Phật Pháp kết duyên. Hôm đó có một bà lão cùng một người nam trong tay bưng một khung kiếng đi đến Tín Nghĩa Đường, trên mặt hai người lộ nét rất vui vẻ, ở trước Phật, năm vóc sát đất, rất là cung kính dập đầu ba lạy, tôi nhìn thấy không khỏi hiếu kỳ liền đến hỏi bà lão: “Các vị tin Phật lễ bái thành khẩn như thế, không biết là nhân duyên gì?”. Lúc đó bà lão lập tức trả lời rằng: “Tôi đến để đáp tạ Phật, Bồ Tát đã phò hộ”. Tôi tìm cho bà ta một chỗ ngồi, thế là bà từ từ nói ra một đoạn nhân duyên tin Phật như sau:

    “Vào trung tuần tháng rồi, có một đêm tôi nằm mộng thấy răng của tôi toàn bộ rụng hết. Trời sáng thức dậy suy nghĩ đây là một điềm báo trước không tốt lành, tôi liền đem việc chiêm bao không tốt lành này nói với em dâu Cẩm Tỉ, cô ta dạy tôi quỳ trước Phật, nhứt tâm niệm Phật, khẩn cầu Phật Tổ phò hộ cho cả nhà bình an, gặp dữ hóa lành, nạn lớn biến thành nhỏ, nạn nhỏ biến thành không”. Bà lão nói một mạch đoạn nguyên nhân trước này, dừng lại một chút lại nói tiếp: “Tôi có đứa con lớn tên là Thành, làm công nhân đốt than trong vùng núi sâu ở miền Trung. Sáng hôm đó nó đang công tác nổi lửa đốt củi, thì bên tai bỗng nghe có người gọi: “Thành à! Về nào!”. Nó quay nhìn xung quanh, hoàn toàn không thấy ai, tại sao lại có tiếng kêu? Lại chạy ra bên ngoài nhìn xem cũng chẳng thấy người nào gọi nó, nhưng khi nó đi lại vào trong nhà, thì bên tai lại nghe tiếng gọi: “Thành à! Về nào!”. Lúc đó anh Thành cảm thấy rất kinh ngạc, liền nghĩ đến bà mẹ già hơn bảy mươi tuổi ở nhà, có phải đã xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn rồi không? Lập tức đến ông chủ xin nghỉ phép, kiên quyết sửa soạn hành trang về nhà thăm. Khi anh Thành vai mang quần áo, mền bông rời khỏi nơi đốt than khoảng hơn một trăm bước, thì bỗng nhiên nghe “bình” một tiếng thật to, quay đầu nhìn lại xem thử, thì chính là cái gian nhà của anh ta ở đốt than vừa bị sập xuống, anh Thành lúc đó thở phào ra một hơi, mừng rỡ đã thoát khỏi tai nạn bị đè chết, trong lòng rất là an ủi, sau đó anh vẫn cứ vai mang hành lý lên đường về nhà.

    Suốt đường đi toàn là đường núi, anh Thành vượt qua mấy ngọn núi rồi, còn phải đi qua một cái khe núi lớn, cái khe núi này không có cầu, mà phải dùng một loại dây thừng to, cái giỏ tre để làm dụng cụ qua lại hai bờ, người ngồi trong cái giỏ tre, trên hai bờ đều có người kéo dây thừng qua lại cho khách, anh Thành cần qua khe núi này cũng không ngoại lệ, ngồi trong giỏ tre, mền bông và các thứ đồ v.v… đều để kế bên, đang lúc được kéo đến giữa khe thì bỗng nhiên dây thừng bị đứt, cả người và hành lý đều bị rớt xuống khe và bị nước cuốn đi, do vì khe sâu mấy trượng, nên nước trong khe chảy rất mạnh, người ở hai bên bờ đều đành bó tay, không có cách gì, chỉ có kêu lên “tội nghiệp” mà thôi! Anh Thành rơi vào trong khe cũng tự lượng không sống được, nhưng bị nước cuốn đi một đoạn, kỳ tích lại phát sanh: anh ta đang quẫy đạp trong nước, mạng sống như ngàn cân treo sợi tóc, bỗng ở trong khe phát hiện một đám cỏ nước, tay mặt tức thời nắm đám cỏ nước đó, chuyển mình một cái liền đứng lại trong nước, sau đó bò dần lên trên bờ, đương nhiên là những hành lý v.v… đã bị nước cuốn trôi mất, đơn độc một thân, rốt cuộc được bình an vô sự về đến nhà”. Trên đây là câu chuyện thật, không thể nghĩ bàn như thế, do bà lão đó kể lại, nhờ mẹ già nhứt tâm niệm Phật mà cảm ứng được người con tiêu tai thoát nạn nguy hiểm hai lần.

  5. 5. CHỊ LẠY PHẬT, EM TRAI ĐƯỢC NHỜ PHƯỚC

    Phật và Bồ Tát là thầy tốt, là phước điền của chúng sanh. Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm, cũng là một vị thiện hữu tri thức, gieo rắc hạt giống Bồ Đề. Bà mỗi lần mời hẹn các nhân viên hoằng pháp của Liên Xã ở Đài Trung, ngày giờ đã định xong, liền về nhà trước đi tuyên truyền khắp các nơi ở trên núi, già trẻ trai gái không ai không đến niệm Phật, nghe pháp. Gieo giống thì nhất định sẽ nảy mầm; có niệm Phật thì nhất định có cảm ứng. Vào khoảng tháng 5 năm trước, có một hôm vị liên hữu Thủy Cẩm nói với tôi: “Trong xóm nhà của mẹ tôi có một bé gái mười tuổi, rất là thông minh và có căn lành, cô ta lần nào cũng đến tham gia nghe các vị giảng về Phật pháp, cảm thấy rất là hay, bèn phát tâm hàng ngày niệm A Di Đà Phật. Do vì trong nhà cô ta chưa có lập bàn thờ Phật cho nên sáng tối đều đến nhà bên cạnh có bàn thờ Phật để nhờ lạy Phật”.

    Khoảng mấy tháng sau, đứa con trai ở nhà có bàn thờ Phật kia mắng cô: “Mầy không biết thể diện, không biết xấu hổ, Phật ở nhà tao, không cho mày đến lạy!”. Cô gái thông minh này không dám đến nhà đứa con trai kia lạy Phật nữa, nhưng trong lòng lúc nào cũng nhớ nghĩ đến lạy Phật, tâm không rời Phật, Phật không rời tâm. Có một đêm đang ngủ bỗng nhiên thức dậy, quỳ trên giường, chắp tay niệm: “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm mãi không thôi. Mẹ của cô ta cũng thức dậy nói: “Con nhỏ này nửa đêm nửa hôm thức dậy làm gì vậy?”. Cô bèn nói: “Má! Con thấy được kim thân to lớn của Đức Phật A Di Đà, diện mạo tươi vui, từ trong hư không bay đến trước mặt con, con vội vã thức dậy cung kính niệm Phật. Má! Con rất mong có được một tượng Phật để cúng dường. Con cầu xin má thỉnh một tượng Phật về nhà thờ được không má?”. Cô ta chắp tay lại cầu xin mẹ: “Má! Con nghĩ ra rồi, con heo đất của con ngày mai sẽ đập ra, có được bao nhiêu tiền, nhờ ba đến đường Sa Lộc thỉnh về một tượng, như thế mỗi ngày con đã có Phật, có thể lễ lạy được rồi”. Má của cô ta liền hứa nhận lời. Sáng sớm thức dậy, đập vỡ con heo ra đếm, tất cả được 28 đồng, cha của cô ta đi đến đường Sa Lộc, tìm được một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát đến 50 đồng thỉnh về nhà. Buổi sáng ngày mồng 1 hôm đó liền an vị tượng, mẹ cô ta chuẩn bị bánh dày đỏ và mua về hương hoa quả phẩm v.v… Đang khi cả nhà vui vẻ, bỗng nhiên phát hiện mất đứa em trai bốn tuổi của cô bé! Thế là cả nhà hoảng hốt lập tức cho người đi tìm khắp nơi, đồng thời tổng động viên mấy trăm người bà con trên núi dưới núi chia ra đi tìm, ngay cả mấy ao cá lớn trong làng, cũng đều có người lặn xuống mò tìm, vẫn không tìm ra!… Từ sáng đến tối vẫn không tìm được! Có mấy người cười cha mẹ cô ta rằng: “Vợ chồng mấy người là người lớn cũng đi nghe lời của con nít, muốn lạy Phật cái gì! Mấy người ngày hôm nay cũng chính vì bận lo việc an vị tượng Phật mới xảy ra đại họa như thế!”. Tội nghiệp cho cô bé thông minh này, bị người này một câu, người kia một câu đàm tiếu, sợ đến nỗi một mình lén lén quỳ trước tượng Bồ Tát hai mắt đoanh tròng lệ rơi, khổ sở cầu xin: “Phật, Bồ Tát ơi! Các ngài phải phò hộ cho đứa em trai bốn tuổi của con được bình an về nhà. Nếu như xảy ra điều không may gì, con từ nay về sau không thể tiếp tục lạy Phật, niệm Phật được nữa, những người hàng xóm đây cũng không dám tin Phật nữa!”. Lúc đó cha của đứa bé sực nhớ lại thằng bé bốn tuổi này sau khi sanh, đã từng có đi xem quẻ bát tự (bát tự hà lạc) liền tìm trong tủ lấy ra tờ giải về số mạng của thằng bé đưa cho mọi người xem. Quả nhiên trong quẻ giải viết rất rõ ràng vào năm đó tháng đó (vừa khéo chỉ đúng vào tháng này năm này!) sẽ xảy ra tai họa bất ngờ! Thế là mọi người nhìn nhau nhưng rồi cũng không ai biết làm thế nào!

    Nguyên thằng bé bốn tuổi này, từ lúc sáng sớm, tự mình chạy ra khỏi nhà, cũng không biết là thuận theo đường sắt dọc biển, hay là từ đường đó chạy đi thẳng một mạch đến hơn 5 giờ chiều. Ở gần trạm xe Vương Điền có một anh sinh viên trẻ trông thấy nó một mình cắm đầu chạy trên đường sắt, anh sinh viên trẻ đó liền kêu: “Em bé! Em bé! Ở đó nguy hiểm lắm, mau dừng lại đi!”. Thằng nhỏ cũng chẳng thèm quay đầu lại, cứ cắm đầu chạy miết. Anh sinh viên tốt bụng này liền chạy thẳng tới trước ôm cứng thằng bé lại. Ai có ngờ thằng nhỏ này, mắt trợn lên dữ dằn, há miệng cắn trên tay anh sinh viên một cái. Anh này vẫn không giận nó, cố nén chịu đau, ôm thằng bé ép đưa đến trạm xe, giao cho trưởng trạm giữ nó. Hỏi ở đâu, tên họ là gì cũng không biết nói, trưởng trạm sực nhớ đến hồi sáng ở trạm xe Long Tỉnh có liên lạc điện thoại đến dặn chú ý ở trên núi Long Tỉnh có một đứa bé bốn tuổi đi lạc, trưởng trạm xe Vương Điền liền gọi điện thoại cho trạm xe Long Tỉnh mời người nhà của thằng bé đến nhận lãnh về.

    Bà vợ của trưởng trạm thấy thằng bé toàn thân bụi bặm, bộ dạng đáng thương và rất đói, liền dắt nó về nhà, trước tắm cho nó, lại lấy quần áo của con mình thay cho và cho nó ăn hai chén cơm. Có lẽ chạy suốt ngày đường mệt quá, nên nuốt hai chén cơm xuống bụng xong, liền lăn ra ngủ, bà vợ của trưởng trạm liền bế lên giường để nó ngủ yên.

    Người ở trạm xe Long Tỉnh lập tức cho cha mẹ nó hay, nhanh chóng đi nhận về. Từ nhà của trưởng trạm xe Vương Điền đem nó về, lúc đó đã 11 giờ đêm. Mặc dù đã nửa đêm, nhưng những bà con già trẻ lớn bé ở vùng đó đều đến thăm nó. Thằng bé này đã được bà vợ tốt bụng của trưởng trạm dùng xà bông thơm tắm cho toàn thân thơm phức, lại mặc cho bộ đồ đẹp nữa, mọi người ai nấy đều nói: “Hôm nay thằng bé được bình yên về nhà, chính là nhờ phước phần của chị nó lạy Phật. Thật là tin Phật, niệm Phật có cảm ứng vậy!”. Nếu không thế thì thằng bé này từ Long Tỉnh đến Vương Điền chạy suốt một ngày trên đường sắt dọc biển lại không gặp việc gì bất trắc ngoài ý muốn… Đồng thời lại còn gặp được người tốt giúp đỡ, gặp được sự thương yêu giúp đỡ của anh sinh viên và bà vợ tốt bụng của ông trưởng trạm xe. Đây nếu không phải Phật, Bồ Tát phò hộ thì làm sao có thể về nhà bình yên vô sự như thế?

  6. 6. PHẬT VỐN LÀ Y VƯƠNG CÓ THỂ TRỊ DỨT CÁC CHỨNG BỆNH

    Câu chuyện thật ở trên là của một bé gái mười tuổi nhờ nhất tâm niệm Phật, được Phật A Di Đà phò hộ cứu đứa em trai 4 tuổi của cô ta tiêu tai thoát nạn. Các vị độc giả có lẽ suy nghĩ rằng: “Đây có lẽ do nghiệp chướng của cô bé còn nhẹ, hãy chưa kết oán cừu với nhiều người cho nên niệm Phật dễ được cảm ứng, nếu như người già lớn tuổi niệm Phật sao có thể có được cảm ứng như thế?”. Nhưng phải biết Phật Pháp vốn bình đẳng, không có cao thấp, người già lớn niệm Phật cũng có cảnh giới bất tư nghì. Tôi một lần nữa kể ra một chuyện thật để chứng minh:

    Mẹ của liên hữu Lý Thủy Cẩm là một vị thọ Bồ Tát giới ở thư viện Từ Quang vào ngày 10 tháng 6 năm Dân Quốc thứ 49, mọi người đều gọi bà là lão Bồ Tát. Bốn năm trước lúc bà 80 tuổi, ở dưới vú bên phải bỗng nhiên nổi lên một cục thịt to bằng cái chén trung. Theo bác sĩ chẩn đoán là ung thư gan, đã rất nguy kịch, hết phương cứu chữa, chẳng những dùng thuốc không hiệu quả, mổ lại càng không được, chỉ có để bà muốn ăn gì thì cố mua cho bà ăn, thế là tốt rồi! Tây y, Đông y đều nói như thế, không kê thuốc cũng không chích thuốc, châm cứu gì
    cả! Cứ như thế nằm trên giường bệnh đau đớn triền miên suốt 6 tháng, nhờ vào đứa con trai tên là Nghĩa, là một cư sĩ và người con dâu chăm sóc phục dịch kề bên; con gái là Thủy Cẩm cũng về nhà chuẩn bị hậu sự (đám tang). Nhưng trong 6 tháng, lão Bồ Tát mỗi ngày hai thời sáng tối, bất luận thế nào đều nhất định đứng dậy lạy Phật, dầu là đang trong cơn bệnh khổ, nằm trên giường bệnh, miệng cũng không rời Thánh hiệu A Di Đà Phật. Vào khoảng đầu tuần tháng Tám (từ mồng 1 đến mồng 10) bệnh trạng đã rất trầm trọng, thân thể không thể cử động được, miệng không nói được! Một đêm kia, lúc bệnh trạng đang rất nguy cấp bỗng nhiên thấy bà nói lẩm bẩm: “A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát … các ngài viết chi nhiều chữ như thế, con một chữ cũng không biết! Các ngài sao không nói thẳng với con có tốt hơn không?”. Ngưng lại một chút, lão Bồ Tát lại nói tiếp: “Cảm ơn lòng từ bi của Phật rất nhiều, các ngài 10 giờ tối mai sẽ đến giải phẫu cho con cắt bỏ đi cục thịt ở dưới ngực bên phải này, A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, các ngài thật là từ bi quá!”. Những lời này đều là vợ chồng A Nghĩa và vị liên hữu Thủy Cẩm tự tai nghe được, nhưng lúc đó lại cho là người già trước lúc lâm chung, tinh thần rối loạn nói lung tung vậy thôi! Nhưng đến sáng lão Bồ Tát liền kêu con, cháu đi chuẩn bị hương hoa quả phẩm, đặt một cái bàn thờ trong phòng để tiếp đón Phật Bồ Tát đến trị bệnh. Thật là không thể nghĩ bàn, vừa đợi đến 10 giờ, liền nghe tiếng khua của dao kéo… Đột nhiên nghe một tiếng “sựt”, cục thịt ở dưới ngực bên phải đó bỗng bị cắt rời ra, máu chảy ra đen như than, từng giọt từng giọt to bằng ngón tay cái, chảy ra rất nhiều. Từ đêm đó trở đi, sức khỏe của bà mạnh khỏe dần dần, miệng của vết thương nơi cắt cục thịt, nhờ con dâu hằng ngày dùng nước trà rửa, rửa không đến một tháng, không cần thuốc gì mà khỏi bệnh.

    Hiện nay lão Bồ Tát gặp người nào cũng liền khuyên niệm A Di Đà Phật; xâu chuỗi từ nào đến giờ chưa từng rời tay. Năm nay dù đã tám mươi bốn tuổi nhưng sức khỏe còn mạnh hơn người thường. Giữa Đài Trung và Minh Tú thường đi đi về về tinh thần sung mãn khác thường. Phật vốn là đại Y Vương, ngoại khoa đại phẫu thuật của Phật, Bồ Tát là trị muôn người lành muôn người, nhưng điều quan trọng là chỉ hỏi nơi bạn là có đúng “nhất tâm niệm Phật” hay không? Độc giả nếu không tin, lão Bồ Tát đến nay vẫn còn mạnh khỏe, nếu không ngại xin mời đích thân đến thăm một lần. Bà cụ già rồi, đã không vì danh cũng không mưu lợi, cần gì phải dựng ra câu chuyện này để lừa gạt người?

  7. 7. TRỢ GIÚP CHO CHA VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG THẬT LÀ ĐẠI HIẾU!

    Ban trợ niệm của Liên Xã ở Đài Trung khởi đầu là do một tay của lão cư sĩ Giang Ấn Thủy tổ chức dựng nên, cho nên mọi người cử ông làm trưởng ban trợ niệm, chuyên phụ trách niệm cho người lâm chung được vãng sanh Tây phương. Mọi người đều quen tôn xưng lão cư sĩ là Giang tiên sinh. Lúc ông 71 tuổi còn kiêm nhiệm chức giáo sư lịch sử ở Học Uyển chùa Linh Sơn, ông gánh vác mọi việc vì người, rất tận tình, không từ khó nhọc. Không may vào hạ tuần (khoảng 20 đến 30) tháng 8 năm Dân Quốc thứ 48, ông bỗng bị chứng bệnh suyễn mệt tim, Đông Tây y đều không hiệu quả, đến khi bệnh quá nguy kịch, có một hôm vào lúc 7 giờ sáng, con trai của ông là Giang Trọng Phan Quân (dạy học tư gia trong thành phố Đài Trung), đến nhà tôi nói với tôi: “Sư cô Khán Trị! Hôm qua bác sĩ nói cha tôi sống tối đa thêm bảy ngày nữa thì lìa đời, kêu tôi phải lo chuẩn bị hậu sự, không biết nên làm thế nào đây?”. Tôi vốn biết Trọng Phan Quân lúc bình thường là đứa con rất hiếu thuận, liền hỏi anh ta: “Từ lúc cha anh bệnh đến nay, anh đã tốn hết bao nhiêu tiền cho cha anh rồi?”. Anh ta nói khoảng hơn năm mươi ngàn đồng. Tôi nói: “Nếu theo pháp thế gian mà nói, như thế đã hết sức vì người rồi. Nhưng tốn nhiều tiền như thế đối với cha anh mà nói lại không có ích gì cả, chỉ có thể làm tăng thêm đau khổ cho thân xác! Tôi nghe nói anh mấy tháng nay không nhớ đến thay đổi y phục, ngày đêm chỉ lo hầu hạ thuốc thang, có thể nói anh là một người con có hiếu trong đời, nhưng như thế cũng chưa thể gọi là lòng hiếu chơn chánh!”. Trọng Phan Quân nghe xong lấy làm lạ không biết gì, lặng lẽ nhìn tôi, tôi liền vì anh ta mà giải thích: “Theo lý nhà Phật nói, anh phải làm cho cha anh tâm được an, chết có chỗ về (tâm hữu sở an, tử hữu sở quy). Anh nếu thật có lòng hiếu, ắt phải về nhà ở bên cha mà niệm Phật, bắt đầu hôm nay niệm 7 ngày, tâm của cha anh chắc chắn sẽ vô cùng vui vẻ, khiến cho ông ra đi được nhẹ nhàng, vãng sanh về cõi Phật, như thế mới là đại hiếu chơn chánh. Hiếu hạnh chung chung của người thế gian chỉ là cung cấp những sự hưởng thụ trong cuộc sống của cha mẹ vào lúc tuổi già, sau khi chết thần thức đọa lạc vào đâu lại không cần biết, đây chỉ là hiếu về vật chất, cho nên không thể nói là đại hiếu”. Giang Quân nghe xong rất vui mừng tiếp nhận đề nghị của tôi, tôi bèn chỉ cho anh phương pháp niệm Phật, hy vọng anh ta mỗi lần niệm một giờ cho đến hai giờ, cần chí tâm thành khẩn, mỗi câu phải rõ ràng, mới có hiệu quả.

    Ngày hôm ấy là ngày tôi giảng kinh định kỳ ở giảng đường Tân Trúc Văn Nhã, nhưng từ lúc sáng sớm sau khi nghe được tin này, nghĩ đến việc một thành viên quan trọng trong Liên Xã chúng tôi chỉ sống thêm 7 ngày nữa sẽ lìa đời, trong lòng khó tránh khỏi tình cảm đau thương của sự sinh ly tử biệt, cho nên không thể đi Tân Trúc, vốn muốn đi thăm họ (gia đình Giang tiên sinh), lại nghĩ có lẽ Trọng Phan Quân đang niệm Phật, cha anh ta chắc chắn nghe rất hoan hỉ. Mãi tới 8 giờ tối, tôi mới đến nhà họ Giang. Giang tiên sinh vừa nhìn thấy tôi liền nói: “Chị Khán Trị! Mời ngồi! Mời ngồi. Có lẽ chị rất bận, cho nên mấy ngày nay không đến thăm tôi, hôm nay pháp sư Sám Vân tặng cho tôi hai xâu chuỗi Bồ Đề Tinh Nguyệt, mấy đứa đem lại cho chị Khán Trị xem nào”. Lại nói rất nhiều về con cái của ông ta. Lúc đó tôi liền nói với ông: “Vạn pháp đều vô thường, gia tài con cái đều là giả tướng, biển khổ thế gian không nên lưu luyến thêm, Tây phương là vườn nhà yên ổn, là quê hương an lạc của chúng ta, tâm chúng ta nhất thiết không được điên đảo, bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật cho ông nghe, ông phải buông bỏ hết mọi duyên, nhất tâm niệm Phật!”. Tôi liền cầm cái khánh dẫn lên, to tiếng niệm Phật. Cả nhà ông ta từ bà Giang và vợ chồng của Trọng Phan cho đến con gái, con rể tổng cộng 7 người, đều cùng niệm Phật, niệm khoảng 30 phút, bỗng nhiên Giang lão cư sĩ tự mình ngồi dậy, hai tay chấp lại, hai chân ngồi kiết già, hai mắt mở to, nét mặt vui tươi, lúc nằm xuống lại, an tường vãng sanh trong tiếng Phật hiệu A Di Đà. Trong khoảnh sát na hiện ra kỳ tích không thể nghĩ bàn như thế, thật tình mà nói, tôi lúc đó cũng giật mình!

    Cả nhà con cháu của Giang lão cư sĩ do tôi hướng dẫn phân ban trợ niệm, niệm đến trời sáng đã qua 8 giờ đồng hồ, thử sờ trên đỉnh còn rất ấm, thân thể vẫn mềm mại như bông, nghi dung còn tươi tốt, trang nghiêm hơn cả lúc còn sống.

    Tôi liền hỏi Trọng Phan Quân: “Anh hôm qua khi về nhà, có niệm Phật cho cha anh nghe không?”. Giang Quân liền nói: “Có! Có. Tôi từ nhà bà cô về, liền ngồi bên cạnh cha mà niệm Phật. Lần đầu niệm được hai tiếng đồng hồ, buổi chiều được hai tiếng nữa, cha tôi vô cùng hoan hỉ, gọi tôi là con ngoan và hỏi ai dạy tôi niệm Phật? Làm sao hôm nay có thể niệm Phật được nhiều như thế? Tôi liền trả lời: “Ba! Đó là tự con phát tâm niệm Phật, con từ nay trở đi phải niệm Phật hàng ngày, cầu nguyện cho ba sớm được khỏe mạnh”. Cha tôi nghe xong rất hài lòng, vui vẻ, buổi trưa liền ăn một chén cháo, nửa dĩa rau xanh, đau đớn hầu như bớt phân nửa. Bác sĩ nói có thể sống thêm 7 ngày nữa mới chết, không ngờ có mấy tiếng đồng hồ sau linh giác lại an tường vãng sanh trong tiếng niệm Phật, thật là Phật Pháp vô biên, không thể nghĩ bàn.

    Lão cư sĩ Giang Ấn Thủy là người vãng sanh vào tháng 2 năm Dân Quốc thứ 49. Vào khoảng tháng 6 tôi đi bộ vô ý bị té gãy cánh tay rất nặng, xương gãy làm ba khúc, đêm đó đau đến nỗi không thể ngủ, đến 2 giờ khuya vẫn không thể nhắm mắt. Tôi liền lẩm bẩm nói với cánh tay bị đau rằng: “Mi là thứ đồ giả! Cái túi da hôi thối sống đã mấy chục năm! Đau là do mi đau, vì mi là mi, ta là ta. Ta cần đi Tây phương, không liên can gì tới mi!”. Tôi liền một mực quán tưởng đến Phật, trong lúc nửa tỉnh nửa thức, bỗng thấy một người từ trong hư không đáp xuống, đi thẳng đến trước mặt tôi, ông ta mặc áo vải màu xám, thân thể to lớn, gương mặt cũng to, chỉ thấy phân nửa thân trên còn phân nửa thân dưới bị mây màu che khuất. Người này đột nhiên gọi tôi: “Chị Khán Trị! Tay của chị đau lắm hả? Đây là thời vận không tốt nhưng tai nạn đã qua rồi, không sao đâu!”. Tôi vừa nghe tiếng liền ngẩng đầu lên xem lần nữa, rất giống Giang tiên sinh, tôi liền hỏi: “Giang tiên sinh! Ông có vãng sanh không?”. Ông ta trả lời liên tiếp: “Có! Có!…” rồi xoay mình biến mất. Lúc tôi mở mắt ra xem là đúng 3 giờ, tay cũng không còn đau nữa, không đầy mấy ngày liền khỏi. Đây là lần thứ nhất tôi nhìn thấy người vãng sanh, có bút mực thế nào cũng khó mà diễn tả hết cái tướng trang nghiêm tốt đẹp đó được!

    Tháng 3 năm thứ 50 là ngày giáp năm của Giang tiên sinh, nhà ông ta ở đường Dân Tộc dời về nhà mới ở đường Đài Trung, bà Giang nhờ tôi thỉnh tượng Phật về an vị nhà mới và niệm Phật siêu độ, chuyển các lư hương bài vị của tổ tiên, chủ thần. Bận rộn suốt một ngày, đến tối ngủ lại chiêm bao thấy Giang tiên sinh hình tướng cũng như lần trước, đến trước mặt tôi nói: “Chị Khán Trị! Cám ơn chị nhiều. Thọ nhận sự giúp đỡ của chị rất nhiều!”. Tôi lại hỏi ông ta như lần trước: “Giang tiên sinh! Ông có vãng sanh không?”. Ông ta cũng lại như lần trước nói: “Có! Có!”. Xong liền biến mất. Sáu năm sau không còn chiêm bao thấy nữa, tôi hối hận tâm mình ngu si, điều quan trọng không hỏi, hai lần đều chỉ hỏi ông ta có vãng sanh không? Tại sao không hỏi: “Khán Trị tôi đây có thể được vãng sanh không? Phải đến ngày nào mới được vãng sanh?”.

  8. 8. VỐN ĐẾN ĐÒI NỢ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC GIẢI OAN

    Nhớ lại vào đầu tuần tháng 2 mười năm trước, Ái cô nương, trụ trì của chùa Đại Nhã Long Thiện, gặp tôi ở trạm xe cục Công lộ, bèn nói với tôi rằng: “Chị Khán Trị, ngày 19 tháng 2 là ngày khai pháp hội của chùa tôi, tín chúng đều muốn nghe chị giảng Phật Pháp, xin mời chị phát tâm đến”. Tôi liền nhận lời. Ngày ước định đến liền đi, lại còn mang theo rất nhiều “vô thượng chí bảo” và những sách về pháp môn Tịnh độ, hôm đó sau khi giảng xong, phân phát cho các thính chúng để kết duyên. (Vô thượng chí bảo là một loại như tấm thiếp xếp bỏ túi, in hình Tây phương Tam Thánh và những phương pháp giản tiện về niệm Phật)

    Tháng 2 năm sau lúc tôi đả thất tại chùa Linh Sơn ở Đài Trung, hôm đó là ngày sư tỷ Huệ Phồn hộ thất; khoảng hơn 3 giờ chiều, tôi đang niệm Phật trong Niệm Phật đường, sư tỷ Huệ Phồn đi vào nhè nhẹ kéo áo tràng tôi một cái, tôi liền đi theo Huệ Phồn ra ngoài xem coi chuyện gì, chỉ thấy một người đàn bà ở dưới quê, hoàn toàn không quen biết, khoảng hơn 50 tuổi, đang đứng ngoài sân. Tôi liền hỏi: “Bà ở đâu kêu tôi có việc gì?”. Bà ta nói: “Ông nhà tôi kêu tôi kiếm bà, gặp mặt bà để nói lời tạ ơn bà. Tôi từ sáng sớm vào thành, ở trong thành hỏi thăm khắp hết: “Sư tỷ Khán Trị ở đâu?”, trong đó có người chỉ, nói bà ở trong Liên Xã. Đến Liên Xã, người trong Liên Xã nói bà đang ở chùa Linh Sơn cho nên tôi tìm đến đây, muốn nói một chuyện để bà biết, cũng là báo đáp cái ân của bà”. Tôi nghe xong lấy làm lạ, thật chẳng biết ất giáp gì cả! Xem ra chuyện này không thể nói hai ba lời mà xong được, vả lại quy củ Phật thất ở chùa Linh Sơn rất nghiêm, ở sân chùa không được nói chuyện, tôi liền dẫn bà ta cùng ra phía ngoài tường, để tiện hỏi cho rõ, lúc đó Huệ Phồn cũng đi theo.

    Người đàn bà kia liền nói: “Tôi là người ở trong làng Lại Lịch mười ba giáp, hồi tháng 2 năm ngoái lúc bà giảng Phật Pháp ở chùa Đại Nhã Long Thiện, con trai của tôi là Lại Phúc Hưng cũng có nghe giảng ở đó. Sau khi nghe xong có thỉnh “vô thượng chí bảo” và một ít quyển sách nhỏ về nhà nữa. Từ hôm đó, nó bắt đầu tin Phật, lại còn mỗi ngày lạy Phật, niệm Phật, y theo phương pháp trong “vô thượng chí bảo”, hai thời khóa tụng niệm sáng tối, từ đó đến giờ không hề gián đoạn, gần như là được đến trình độ đi, đứng, nằm, ngồi Phật không rời tâm, tâm không rời Phật”. Tôi nghe xong rất là ngạc nhiên, trong thế giới Ta Bà này sao lại có người có phúc khí lớn như thế, mới nghe Phật pháp một lần, liền bắt đầu tu hành sớm tối như vậy? Tôi liền hỏi bà ta: “Con bà bao nhiêu tuổi? Làm nghề nghiệp gì? Làm sao mà phát tâm được như thế?”. Người đàn bà đó lại nói: “Con tôi hồi năm ngoái hai mươi lăm tuổi, nó học xong trung học vào đại học và hai mươi ba tuổi thì tốt nghiệp đại học, song về nhà nó bị lao phổi, hàng ngày chạy chữa Đông Tây y, chích thuốc châm cứu v.v… trong ba năm tốn rất nhiều tiền, mãi đến sau khi nó niệm Phật sức khỏe mới đỡ hơn lúc trước, về mặt tinh thần cũng rất lạc quan, nó cũng thường vào thành phố thỉnh mua những sách Phật Pháp về xem, cho nên thấy nó rất là vui vẻ”.

    Tôi hỏi bà ta: “Trong nhà bà có mấy người?”. Bà nói: “Ông nhà tôi ngoài tôi là vợ chính ra, còn có một người vợ lẽ, cùng với con tôi tổng cộng bốn người. Vì bệnh của con, chúng tôi ba người già đều phải hết sức trông nom nó, hy vọng nó mau lành bệnh, một lòng nuôi con phòng lúc tuổi già, hy vọng ba người già chúng tôi có chỗ nương tựa. Nhưng đến cuối năm ngoái, đầu tuần tháng chạp âm lịch, Phúc Hưng bỗng nhiên mời ba người già chúng tôi đến bên giường, nói rằng: “Ba và hai má! Con trưa hôm nay sẽ vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, ba má đều già, nhất thiết chớ quá đau buồn, than thở tuổi già không con, anh cả của con đi qua Nhật mười mấy năm bặt vô âm tín, nhưng ba má không cần phải lo, hiện nay anh ấy đã lập nghiệp, thành gia thất, lấy vợ sinh con ở Nhật Bản rồi, anh ấy vào đầu tuần tháng 2 sẽ có thư về hỏi thăm, về sau sẽ qua qua lại lại giữa Đài Loan và Nhật Bản, cảnh già của ba má không đến nỗi cô quạnh đâu!”.

    Ông nhà tôi nghe xong những lời như thế, liền khóc mà nói với con rằng: “Sức khỏe con gần đây đã đỡ hơn trước nhiều rồi mà, con không được bỏ ba má. Con nên cầu Phật A Di Đà phò hộ cho con đi”. Lúc đó Phúc Hưng con chúng tôi lại nói: “Con vốn là đến đây để đòi nợ, ba má ba người trong đời quá khứ đã kết oán cừu với con rất sâu, thiếu nợ của con rất nhiều, đời này đến làm con của ba má, từ lúc sanh cho đến khi tốt nghiệp đại học, rồi bị cái bệnh lao phổi ác ôn này, thuốc thang suốt ba năm, đến nay nợ vẫn chưa hết, con vốn muốn chờ đến sau khi bán tiêu căn nhà này đi khiến cho ba má ba người già nghèo cùng khốn khổ, không có chỗ nương thân, sống khổ như chết. Nhưng năm nay nhờ gắng sức nhất tâm niệm Phật, nên đã tiêu diệt được tội nghiệp nhiều đời, sắp vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Từ nay bốn người chúng ta không còn oán cừu gì nữa, oán cừu đã được cởi mở hết rồi. Ba má ba người cũng phải chí tâm niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây phương, về sau chúng ta sẽ có thể ở chung một chỗ mãi mãi, không còn chia lìa nữa. Mong rằng ba má nhờ kỹ lời con! Thôi thời gian đã đến rồi, đem giùm quyển “Vô Thượng Chí Bảo” lại cho con, không được khóc, cũng không nên động đến thân con, ba má ba người nên quay lưng lại, không nên nhìn con, con cũng sẽ tự niệm Phật”

    Phúc Hưng để quyển “Vô Thượng Chí Bảo” trong lòng bàn tay và chắp tay lại, bắt đầu to tiếng niệm Phật, chúng tôi cũng giúp trợ niệm, mặc dù nó đã nói không nên nhìn nó, nhưng chúng tôi cũng cứ lén lén quay đầu lại nhìn. Niệm được 20 phút, tiếng của Phúc Hưng từ từ nhỏ dần, đến khi dứt thở, hai tay buông ra, quyển “Vô Thượng Chí Bảo” rớt trên ngực, liền ra đi một cách nhẹ nhàng tốt đẹp. Người đàn bà nói tới đây thở một cái, lại nói tiếp: “Nhà của tôi có nhiều phòng đều cho mướn, số người mướn trong đó có người tỉnh này, có người tỉnh khác đến, lâu nay thấy Phúc Hưng bị lao phổi, mọi người đều sợ lây bệnh, nên đã đi khắp các nơi muốn dời chỗ, bây giờ nhìn thấy con chúng tôi khi lâm chung nói chuyện một cách sáng suốt rõ ràng, tướng trạng trang nghiêm khác người thường như thế, ai cũng khen ngợi Phật Pháp vô biên, không thể nghĩ bàn! Thế là họ đều không dời nhà nữa. Nhưng cái việc nó nói lúc lâm chung về anh cả của nó ở Nhật Bản, mới đầu chúng tôi không tin, nhưng gần đây quả thực có thư anh nó từ Nhật gửi về nói sắp về Đài Loan thăm chúng tôi, so với lời dự báo trước của Phúc Hưng hoàn toàn phù hợp. Ông nhà tôi rất vui nói: “Nếu không có sư tỷ Khán Trị đến dạy người niệm Phật, thì Phúc Hưng làm sao lúc lâm chung biết được nhân duyên đời trước và cái quả sau này, đồng thời giải hết được oán kết? Từ việc lá thư của anh cả nó từ Nhật Bản gửi về có thể chứng minh những lời của Phúc Hưng có thể tin chắc được”. Ông nhà tôi lại nói ba người chúng tôi về sau có thể sống an nhiên trong tuổi già đây đều là công đức của sư tỷ Khán Trị. Cái ân tình này nhất định cần tôi phải đến Đài Trung tìm sư tỷ Khán Trị, gặp mặt sư tỷ để nói ra việc cảm ứng đặc biệt này cho sư tỷ biết, cũng là để sư tỷ hoan hỷ! Đây chính là chúng tôi muốn báo đáp ân tình của sư tỷ, nên tôi từ sáng sớm đến bây giờ mới tìm ra được sư tỷ đấy!”. Sau khi nói những lời cám ơn liền muốn đi về. Lúc đó tôi liền hỏi bà: “Nhà bà ở đâu? Chồng của bà tên họ là gì?”. Bà ta nói: “Tôi ở số 13 giáp, đường Đại Nhã, chồng tôi tên là Lại Tuấn, con tên là Lại Phúc Hưng”. Lúc đó sư tỷ Huệ Phồn ở kế bên, nghe từ đầu đến đây bỗng nhiên nói với bà ta: “Thì ra cô là em dâu Tuấn, tôi là chị của ông Tuấn, do vì nhiều năm không có qua lại, thật có lỗi! Xin mời đến nhà tôi dùng trà đi”. Bà ta nói cám ơn xong liền bỏ đi. Lúc đó mặt trời đã lặn về phía Tây, hơn 5 giờ rồi. Ba người chúng tôi đứng ngoài tường chùa Linh Sơn, lâu hơn hai tiếng đồng hồ.

    Hai câu chuyện vãng sanh ghi đúng sự thật ở trên đều có thể chứng minh đích thực có Phật A Di Đà, đích thực có thế giới Cực Lạc ở Tây phương; niệm A Di Đà Phật đích thực có thể giải được oán kết, tiêu diệt được oán thù trong nhiều đời nhiều kiếp. Căn cứ theo Đức Phật Thích Ca trong Kinh A Di Đà có nói: “Chúng sanh trong cõi đó, thường vào lúc sáng sớm đều lấy đãy đựng hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc…”. Đây là Đức Phật nói về chúng sanh ở Tây phương, sau khi vãng sanh về đó liền có được thần túc thông. Còn căn cứ theo kỳ tích của Lại Phúc Hưng mà suy đoán, Lại Phúc Hưng lúc lâm chung đã phát sanh được tha tâm thông, mặc dù không thể tìm ra chứng cứ trên kinh điển, nhưng sự thật là như thế. Các độc giả thông minh có thể giải thích dùm cho tôi không?

  9. 9. BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG, NHỜ TIẾNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC CẤP CỨU

    Ở Đài Loan có câu tục ngữ: “Không có quỷ không làm cho chết người” thật là đúng. Mấy năm gần đây, ở các nơi, tai nạn giao thông liên tiếp không ngừng, có lẽ là cô hồn uổng tử các nơi quấy phá, mắt phàm của chúng ta không thể thấy biết được. Tuy không thấy được, nhưng nếu như biết trì một câu Thánh hiệu vạn đức hồng danh A Di Đà Phật thì có thể khiến cho những ma quỷ đó bỏ đi ngay tức thời, lập tức được an nhiên vô sự. Độc giả nếu như không tin thì mấy câu chuyện thật sau đây sẽ chứng minh:

    Vị liên hữu Khưu Liên Châu hiện ở làng Nội Tân phía ngoài cửa thành Nam Đài Trung, mọi người đều gọi bà là sư tỷ Ngọc. 10 năm trước bà mở một tiệm chụp ảnh ở gần chợ Đệ Tam đường Đài Trung. Một hôm sư tỷ Ngọc ở ngã tư trước bưu điện, bị một chiếc xe hơi không rõ của hãng nào đụng ngã trên đường, chiếc xe gây ra tai nạn bỏ chạy mất! Tội nghiệp sư tỷ máu ra đầy mặt, hơi thở thoi thóp không còn biết gì nữa, những người vây quanh nhìn nhau, không nhận biết người bị thương là ai? Ngay lúc đó có một anh lính trẻ đi đến, bỗng nhiên kêu lên: “Sư tỷ! Đây là sư tỷ ở tiệm chụp hình đây mà!”. Lập tức cõng bà ta đưa về tiệm chụp hình, con cái bà vừa thấy liền hoảng kinh, thất sắc, cả nhà đều lớn tiếng niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, anh lính trẻ kia cũng niệm Phật cùng với mọi người. Không bao lâu sau sư tỷ Ngọc đang hôn mê bỗng lên tiếng, chỉ nghe bà ta nói rằng: “Các người đông như thế muốn ta đi theo các người, ta không đi! Các người lái xe hơi lại, muốn ép ta lên xe hả? Ta cũng không đi. Không đi là không đi! Ta là đệ tử của Tam Bảo, suốt ngày niệm A Di Đà Phật, chỉ muốn đi Tây phương thôi, làm sao có thể tùy tiện đi theo các người được chứ? Nếu như Phật A Di Đà đến tiếp dẫn thì ta mới đi”. Nói đến đây ngừng một hồi, lại tiếp: “Rất đông người như thế, muốn đến kéo ta đi, nghe tiếng niệm Phật của các con ta, đã chạy ra ngoài hết rồi, xe hơi cũng chạy luôn”. Không bao lâu sư tỷ tỉnh táo lại hẳn, lúc tôi đến thăm thì trên đầu bà ta đã được bao lớp vải gạc và may mười mấy mũi, bà kể việc bà thấy rất nhiều tà ma quỷ quái muốn ép bà lên xe. Tôi khen ngợi công sức niệm Phật của bà là rất tốt. Nếu như là người không có tin Phật hoặc không dụng công sức nhiều, thì thần thức không sáng suốt, thấy xe hơi có thể đi được, liền vui mừng đi theo họ ngay, há chẳng đáng sợ ư? Thì ra anh lính trẻ cõng bà về nhà là một liên hữu trong ban thanh niên của Liên Xã, đã nhiều năm nghe kinh với Bính Công ân sư, do đó mọi người đều biết nhau, sư tỷ Ngọc nếu không gặp được anh ta, nhẫn đến tự mình không được chánh niệm rõ ràng, chắc chắn khó hồi phục mạnh khỏe.

  10. 10. XE HƯ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC HIỆU LỰC

    Sư tỷ Hoàng Khoan Châu là phó ban trưởng của ban Cửu Liên, là người từ bi, cũng là trưởng ban của Ban 48 lời nguyện. Nhà sư tỷ ở đường Nguyên Tử thành phố Đài Trung, là một gia đình theo Phật, rất là phát tâm Bồ Đề, lúc bình thường, thường khuyên mọi người niệm A Di Đà Phật và thiện xảo phương tiện độ người. Hàng xóm có con nít hay bị hoảng sợ, giựt mình không ngủ được, đều bồng lại nhờ sư tỷ gia trì chú Đại Bi, đứa trẻ liền nhẹ nhàng thoải mái dễ ngủ. Vào khoảng 8 năm trước, một hôm tôi đến nhà sư tỷ chơi, thấy một phụ nữ trẻ tay bồng một đứa bé, xin sư tỷ niệm chú Đại Bi cho cô ta, niệm xong, sư tỷ còn khuyên cô ta rằng:“Lúc cô bồng con cho bú, cũng phải thường niệm A Di Đà Phật, con của cô sẽ được dễ nuôi. Thực ra lúc nào ở đâu cũng có thể niệm, lúc quét nhà, lúc giặt đồ cho đến khi đi đường, một bước một tiếng đều có thể niệm A Di Đà Phật, như thế trong nhà của cô sẽ được bình an vô sự”. Sư tỷ hỏi cô ta: “Chồng của cô làm nghề gì?”. Cô ta đáp: “Tài xế xe hàng”. Sư tỷ nghe vậy lại nói rất khẩn thiết nói rằng: “Cô về nhà nhất định phải chỉ cho chồng cô niệm A Di Đà Phật, nếu như lúc gặp tai nạn hay nguy hiểm phải to tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì có thể tiêu tai khỏi nạn”. Người phụ nữ kia thế mà có căn lành, lại thông minh, khi về nhà, đúng như lời sư tỷ dạy, nói cho chồng nghe và chỉ cho chồng lúc lái xe phải niệm, lúc nguy cấp càng phải to tiếng niệm hơn, chắc chắn có thể đổi nguy thành an.

    Trải qua một tháng, tôi đến nhà sư tỷ thông báo về tin tức Ban 48 Nguyện sẽ mở hội, không hẹn mà gặp lại người phụ nữ bồng con lần trước, trong tay bồng đứa con nhỏ và còn dẫn chồng cô cùng đến, sắc mặt vui tươi, cầm hương hoa quả phẩm, nói là đến để lễ Phật A Di Đà, làm cho sư tỷ vô cùng ngạc nhiên! Thì ra chồng của cô do nghe lời khuyến cáo của vợ lúc lái xe niệm Phật được cảm ứng. Anh nói: “Đa tạ lòng từ bi của cư sĩ dạy cho nhà tôi niệm Phật, còn dạy cô ta khuyên tôi cũng niệm Phật. Tôi ngày hôm qua chở một xe lớn cải xanh đi Đài Bắc, lúc về đã hơn 2 giờ khuya, đang lúc đi đến ngã tư khoảng giữa Trung Lịch và Đào Viên, bỗng nhiên xe không thể chạy được nữa, làm thế nào cũng không nhúc nhích, rất kỳ lạ là trong lúc tứ chi mệt mỏi, tinh thần lo lắng không biết làm thế nào, bỗng nhớ lại việc cư sĩ dạy nhà tôi niệm Phật, lúc đó tôi đang ngồi sau tay lái, hai tay ôm chặt tay lái, có hơi buồn ngủ, miệng nói mơ mơ màng màng rằng: “Vợ của tôi đi đến vị cư sĩ tin Phật ở đường Nguyên Tử, vị đó dạy vợ tôi lúc nấu cơm, quét nhà phải niệm A Di Đà Phật, lúc bồng con cho đến lúc giặt đồ cũng phải niệm A Di Đà Phật, và dạy tôi lúc nguy hiểm hay lúc gặp tai nạn càng nên to tiếng niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đang lúc nói đến đó, thật là lạ lùng, trong tích tắc chiếc xe chở hàng tự nhiên bỗng khởi động lại chạy về Đài Trung, tôi lập tức giật mình tỉnh giấc, thấy có một chiếc xe khác cũng đang đậu ngủ, lúc đó cũng mới thức dậy, trời còn chưa sáng, tôi liền lái xe về nhà an nhiên vô sự”

    Anh tài xế đó lại nói: “Cư sĩ! Nhà của tôi muốn thỉnh an vị một tượng Phật để lễ bái, không biết có được không?”. Sư tỷ rất vui nói: “Rất tốt! Rất tốt!”. Sư tỷ liền tặng cho anh ta một bức Tây phương Tam Thánh của Hồng Kông in, chỉ cho anh ta về để khuôn kiếng và chỉ cho anh ta phương pháp các thời khóa đơn giản sáng tối.

    Vợ chồng tài xế cảm tạ rồi ra về. Đoạn cảm ứng bất khả tư nghì này là chính tai tôi nghe được. Xin khuyên chư vị: Thân người khó được, ai có miệng đều nên niệm A Di Đà Phật, một câu đại chú vương vạn đức hồng danh, đời này gặp được chớ nên bỏ qua!

  11. 11. TO TIẾNG NIỆM PHẬT, ĐUỔI ĐƯỢC OAN HỒN

    Chí tâm niệm được một câu lục tự hồng danh, cũng có thể giải được oán cừu của người khác. Câu chuyện xảy ra vào tháng 4 năm Dân Quốc thứ 46, ở ngay cửa rạp hát Đông Bình ở khu trung tâm, có một chiếc xe tải lớn vì muốn tránh xe đạp mà tông thẳng vào trong rạp hát Đông Bình, ngã hai cây cột lớn ở hành lang gây ra tai họa tử thương sáu người, trong đó có một người bị thương nặng chết liền là một bà cụ hơn sáu mươi tuổi, bà ta mới từ Đài Bắc về đây hôm trước, do vì cãi nhau với đứa con trai mà bỏ nhà ra đi đến nhà con gái ở Đài Trung đây. Con gái bà ta lại rất hiếu thuận với mẹ, khuyên bà không cần phải về, đứa con rể cũng rất vui tiếp bà ở lâu lại Đài Trung.

    Ngày hôm đó khoảng 5 giờ chiều, bà cụ này tắm, xong lại tắm cho đứa cháu gái nhỏ nhất, sau đó cõng đứa cháu gái nhỏ đi ra ngoài chơi, đến dưới hành lang rạp hát Đông Bình, tội nghiệp cho bà ta bị xe đụng vào đầu chết liền, may mà đứa cháu gái đang cõng trên lưng lại bình an vô sự. Qua ngày sau, sau khi hỏa táng, lấy tro xương làm lễ vĩnh biệt ở nhà con gái, mời được mấy vị đạo sĩ về làm lễ siêu bạt vong linh. Hôm đó đứa con trai của bà cũng từ Đài Bắc vội vã đến, tay trái cầm gậy, tay phải cầm phướng, đi theo đạo sĩ khóc thút tha thút thít làm người con hiếu nam. Đang lúc nghi lễ ồn ào, bỗng người con hiếu nam, gậy và phướng đang cầm trong tay, một chân còn bên trong cửa, một chân ngoài cửa đứng nghệch ra đó, không nhúc nhích gì, tròng mắt ngây ra hơi nhướng cao, trong miệng thở khò khè, gương mặt xám đen.

    Lúc đó ở nhà kế bên là vị liên hữu cư sĩ Hà Tùng Vinh, vợ là sư tỷ Hà Trần Nguyệt Nga. Tối đó sư tỷ Nguyệt Nga đang ngồi trên ghế ngay cửa tay cầm xâu chuỗi niệm Phật, bỗng nhiên nghe ở cửa nhà kế bên có tiếng la lớn, không biết xảy ra chuyện gì, vừa rồi tiếng chiêng trống hãy còn vang, tại sao lập tức biến thành âm thanh hỗn loạn như thế. Sư tỷ Nguyệt Nga vì lòng hiếu kỳ xui khiến, trong tay cầm xâu chuỗi, trong miệng vẫn niệm danh hiệu Phật, đi đến gần xem thử. Vừa nhìn thấy hình dáng của người con hiếu nam như thế, sư tỷ Nguyệt Nga giựt mình hoảng sợ không tự chủ được, lớn tiếng la lên “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm Phật to tiếng như thế liên tục được hai phút, sau đó sư tỷ Nguyệt Nga nói: “Nói thật tình nghe, lúc đó tôi to tiếng niệm Phật hết sức như thế thật tình là do sợ, không nén được mà niệm ra, hoàn toàn không phải do vì cứu người mà niệm. Nhưng thật không thể nghĩ bàn, người con hiếu nam đang đứng ngây ra đó, nghe được tiếng niệm Phật, sắc đen trên mặt dần dần tan đi, tay chân cũng hoạt động trở lại, tròng mắt hết ngây dại, không bao lâu lại hồi phục như cũ, cây gậy trong tay trái, lá phướng bên tay phải lại tiếp tục phất phơ đi theo đạo sĩ bình an vô sự”

    Qua ngày kế, người con hiếu nam đó muốn đem bài vị và tro xương của mẹ thỉnh về Đài Bắc an táng, liền đến cảm tạ sư tỷ, anh ta nói: “Ngày hôm qua may mắn được sư tỷ niệm A Di Đà Phật, nếu không thật không thể tưởng tượng được, tôi không biết niệm Phật có lợi ích như thế”. Sư tỷ Nguyệt Nga nhân cơ hội khuyên anh ta: “Sau khi anh về nhà cần phải niệm hàng ngày, thì có thể giải oan kết với mẹ anh, anh cũng có thể tiêu tai giải nạn, tiền đồ rạng rỡ không lường”. Người con hiếu nam đó vừa nhận lời vừa cảm tạ mà về.

    Qua ngày hôm sau nữa, sư tỷ Nguyệt Nga đem cái việc ghê sợ của ngày hôm kia kể cho tôi nghe từ đầu đến cuối. Sư tỷ nói: “Tối hôm kia việc xong rồi, tôi vẫn còn sợ đến nỗi không dám vào nhà, ngồi một mình trên ghế ngoài cửa niệm Phật, niệm đến 11 giờ càng nghĩ càng thấy kỳ lạ, cho dù bị cảm dịch (lúc bấy giờ đang có dịch cảm) cũng không thể có cái lý chỉ hai phút mà khỏi được, không tránh khỏi phải mời bác sĩ chích thuốc, uống thuốc mới có thể bình an”. Sư tỷ Nguyệt Nga là một người thông minh, sư tỷ suy đoán có lẽ là mẹ của người con hiếu nam kia, do vì cái chết thê thảm bất ngờ, oan hồn không tan, ôm lòng hận con trai của bà đã gây gổ với bà, mới khiến bà đến Đài Trung gặp tai họa thảm khốc này. Thế là lúc dẫn vong, liền đi đến con trai của bà tính nợ, oan hồn nẹp cứng đầu cổ của con trai bà, làm cho anh ta gần như chết. Làm xong bà ta đi lại (hướng của sư tỷ) sư tỷ vừa thấy liền niệm to “Nam mô A Di Đà Phật”. Ai ngờ sức đại từ bi, sức đại thần thông của sáu chữ hồng danh này lại công hiệu lớn như thế, nhất là lúc đó sư tỷ sợ đến niệm Phật hết sức, cũng có thể nói là nhất tâm bất loạn, cho nên mới có được hiệu quả lớn như thế, đồng thời hồn quỷ nghe được Thánh hiệu, tâm oán hận đều được tiêu trừ, cho nên mới thả tay ra.

    Các vị! Chúng ta thử nghĩ xem, nếu như khuyên người học Phật, niệm Phật, mọi người đều nói: “Không có tiền bố thí không dám tin Phật”. Những hạng người này sao mà phước mỏng như thế? Bạn hãy xem sư tỷ Nguyệt Nga chỉ là niệm có mấy câu Phật hiệu, không có hóa ra được đồng xu nào mà làm ra được công đức bố thí lớn, cứu được mạng người còn hơn xây tháp bảy tầng. Sư tỷ Nguyệt Nga tánh tình hiền hậu, phẩm hạnh đoan chánh, đã từng được bầu là người mẹ mẫu mực của thành phố Đài Trung, là một người vợ hiền mẹ tốt, con cháu đầy nhà, gia đình rất là tốt đẹp.

  12. 12. NIỆM PHẬT CÓ THỂ ĐỘ ĐƯỢC HUNG THẦN ÁC SÁT

    Vào thời đại khoa học hưng thịnh của thế kỷ 20 này, nếu nói với người nào đó rằng: “Sức khỏe bình thường nếu như xung khắc với hung thần ác sát, các loài linh quỷ v.v… thì sẽ chết”, những người tự cho mình là nhân vật tân tiến kia chẳng những không tin mà còn nói là mê tín, không phù hợp với trào lưu thời đại! Thế thì giới Phật giáo có nên, hay không tin những việc “tương xung tương sát” này? Theo cách nhìn của tôi thì: Thà là tin nó có, nhưng không a dua theo lễ bái, hoặc cầu họ che chở.

    Nếu như chí thành khẩn thiết niệm câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, liền có thể gặp dữ hóa lành, gặp quỷ mà được bình an vô sự. Đầy đủ được diệu pháp cứu cánh này, hung thần ác sát bị câu chú vương trong các chú chánh đại quang minh này, sợ đến nỗi chạy ra khỏi chín tầng mây luôn! Có lẽ một câu Thánh hiệu vạn đức hồng danh này hàng phục được cả tâm ý của loài ác quỷ sát thần si mê không biết quay đầu hàng phục này, hàng phục một cách tâm phục khẩu phục, được chuyển sanh về đường lành cũng không chừng, sau đây xin dẫn ra ba câu chuyện thật để chứng minh:

    Liên hữu Lý Chuẩn là phó ban trưởng ban Phương Quảng, ngụ ở đường Kiến Trung khu Đông, thành phố Đài Trung, nhà của bà có phòng ốc dư cho tài xế chở hàng loại trung mướn. Vợ anh tài xế đó tên A Châu, năm đó 31 tuổi. Vào buổi sáng ngày 20 tháng 12 âm lịch năm rồi, đến một cửa hàng đồ ngoại đường Nam Kinh, muốn lấy y phục mới đặt đem về. Lúc đó bỗng nghe tiếng trống nhạc ầm ĩ trên đường, có người lớn tiếng rằng: “Ngài Tam Tạng Nghệ Các thỉnh kinh về rồi!”. Có người lại nói: “Vòng hoa, xe hoa nhiều quá!”. A Châu ở trong tiệm nghe như thế, khởi tâm hiếu kỳ ra xem thử, không ngờ chỉ thấy tám người khiêng một cỗ quan tài to, A Châu liền rùng mình một cái, miệng cứ nói suốt là đau đầu, ở ngực như có khối đá đè, liền bị hôn mê ngã xuống. Lúc đó người trong tiệm đồ ngoại hết hồn, vội vàng kêu một chiếc xe ba bánh và phái một người hộ tống đưa đi, ngang qua cửa bệnh viện Ngụy Bảo Thuận đường Phục Hưng thì xuống xe, đỡ bà ta xuống, trước mời bác sĩ chích thuốc cho bà ta, sau đó đưa bà ta về nhà.

    Vị liên hữu Lý Chuẩn nhìn thấy A Châu hôn mê bất tỉnh nhân sự, ngũ quan và móng tay đều đen thâm, kinh sợ đến mức la to lên:“A Di Đà Phật đến cứu mạng!”. Lúc đó các công nhân nhà kế bên của anh tài xế loại trung đó nghe tiếng người kêu la đều chạy lại, chỉ thấy hai mắt của A Châu trắng dờ, toàn thân đều đen, hôn mê bất tỉnh, mọi người đều nói không có hy vọng sống lại, có người gọi điện thoại đến miền Nam kêu chồng cô ta về; có người gọi điện thoại kêu má chồng của cô ta lại; chỉ có vị liên hữu Lý Chuẩn là trấn tĩnh, cầm xâu chuỗi trên tay đặt lên ngực A Châu, miệng niệm “A Di Đà Phật”, “Quán Thế Âm Bồ Tát ” không dứt, khẩn cầu Phật, Bồ Tát từ bi cứu giúp A Châu. Niệm được 20 phút, hai mắt và da thịt của A Châu dần hồi phục như cũ, miệng nói: “Sư cô! Bà thật là đại ân nhân cứu mạng tôi, tôi gần như bị đè đến muốn đứt hơi, đang lúc muôn phần đau khổ, xâu chuỗi của bà để trên ngực của tôi, lại nghe được tiếng niệm A Di Đà Phật, sức khỏe dần dần cảm thấy nhẹ nhàng trở lại. Cám ơn sư cô đã thi ân cứu giúp”.

    Những người hàng xóm lăng xăng chúc mừng cho A Châu: “Chúc cô may được người niệm Phật cứu thoát mạng, nếu không thì ba đứa con gái của cô trở thành mồ côi rồi!”. Nghe nói hồi tháng 7 năm ngoái trong hẻm đối diện có một cô gái mới 17 tuổi đi chợ, cũng xem người ta đưa đám tang, về nhà liền la lớn đầu đau tim lạnh, thuốc men gì cũng không hiệu quả, rồi qua đời. Càng bất hạnh hơn là hôm đưa đám tang cô gái này, thì vị nữ chủ nhân của một ngôi nhà ở đầu hẻm là người tin theo ngoại giáo, lúc đó đang đứng ở bên cửa xem cũng bỗng bị đau đầu, cũng đồng chứng bệnh với cô kia, thuốc men gì cũng không hiệu quả, rốt cuộc cũng qua đời. Nghe chuyện của người hàng xóm, mọi người đều chúc mừng cho A Châu. Đây là chuyện trong tháng 2 năm nay, vị liên hữu Lý Chuẩn đến Liên Xã, chính miệng nói với tôi.

  13. 13. BÊN BỜ SỐNG CHẾT, ĐƯỢC CỨU SỐNG LẠI

    Gia đình Liên xã niệm Phật ở Đài Trung, tổng cộng có 48 ban, đều do lão ân sư Bính Công tổ chức và đặt tên. Ban Song tu là một ban được lập hồi tháng 8 năm Dân quốc thứ 44, Ban trưởng Khâu Tâm Trí, Phó Ban trưởng Lâm Đức Kim, Lý Trần Trù v.v. đều là những người rất nhiệt tâm khuyên người niệm Phật. 13 năm trở lại đây, cứ hai tuần giảng Phật pháp một lần, chưa từng gián đoạn. Mỗi lần trước khi giảng có cư sĩ Triệu Đàm Thuyên và phu nhân Lệ Lượng hướng dẫn khóa tụng, cho nên ban viên mọi người gần như đều thuộc lòng kinh chú.

    Ngày 20 tháng 4 âm lịch lần này lúc học nhơn (lời khiêm xưng của bút giả Khán Trị) đang giảng “Khuyên tu pháp môn niệm Phật”, nhắc lại chuyện cảm ứng của vị Liên hữu Lý Chuẩn cứu A Châu. Lúc đó, trong hội giảng có một vị liên hữu họ Tiêu tên Hiệp, nhà ở đường Thái Bình, tức thời đứng dậy nói với mọi người: “Tôi có thể chứng minh đích thật là có ma quan tài, do vì em gái tôi hồi hai tháng trước suýt nữa bị nó hại chết. Em gái tôi tên là Tuyết ở làng Bán Bình Lịch, vào hai tháng trước, A Tuyết sau khi sanh hơn hai mươi ngày còn chưa đủ tháng, sáng sớm hôm đó bỗng nghe một hồi chiêng trống của một đội nhạc, bà mẹ chồng ở nhà kế bên, nhìn không rõ ràng, cứ mãi kêu: “Tuyết à, đi ra nhanh xem đón thần, thật là vui nhộn quá!”. A Tuyết từ trong phòng ló đầu ra xem, thì ra không phải đám rước thần, mà là đám tang khiêng một cỗ quan tài đi qua, tự dưng cảm giác lông tóc dựng đứng, quay mình vào phòng, liền nghe đau đầu, ớn lạnh phát sốt, em rể tôi liền mời bác sĩ chích thuốc, chẳng những không hiệu quả gì mà còn trầm trọng hơn. A Tuyết liền kêu anh ta đi mượn xe hơi đến nhà tôi nhanh chóng chở tôi đến. Tôi vừa nhìn thấy A Tuyết em tôi tim đập liên hồi, nằm trên giường rên rỉ, lập tức đứng lên thắp ba nén hương cầu nguyện Phật, Bồ Tát gia hộ, lại cố sức niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát. Niệm khoảng nửa giờ đồng hồ và niệm chú đại bi vào nước cho nó uống. Sau khi A Tuyết uống nước chú đại bi liền nói đầu hết đau, tim cũng đập nhẹ lại nhiều, về sau sức khỏe hồi phục dần dần.

    Nhưng đời người thì tai nạn nhiều, phiền não nhiều. Sau hơn mười ngày, em rể tôi lại buồn bã đến đòi tôi lập tức lên xe hơi đến nhà nó. Tôi hỏi là có chuyện gì? Em rể tôi nói: Bé Anh, đứa con gái sáu tuổi của nó bị bệnh sởi bỗng nhiên biến chứng không biết việc gì hết, hiện đặt nằm trên gạch chỉ còn có hơi thở yếu ớt. Khi tôi đến nhà em gái xem, con bé Anh bình thường rất là lanh lợi, bây giờ đang nằm trên nền gạch dáng vẻ như sắp dứt thở, rất nhiều người hàng xóm đều đang than thở tiếc thương. Tôi liền cũng y như lần trước lớn tiếng niệm A Di Đà Phật và Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát và niệm chú Đại bi vào nước, dùng muỗng canh đút nước vào miệng của bé. Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, con mắt ngây dại của bé Anh đã biết nhìn xem người rồi. Lúc đó những người hàng xóm đứng phân ra hai bên trái, phải. Tiếng kêu bên trái: “Anh à!”, thì đầu của bé Anh quay qua bên trái nhìn người; tiếng kêu bên phải “Anh à!”, thì đầu của bé Anh quay qua bên phải nhìn người. Lúc đó mọi người đều khen ngợi bà chị vợ thỉnh được Phật tổ lại cứu sống được bé Anh, về sau cho uống thuốc liền có hiệu nghiệm, sức khỏe cũng hồi phục lại dần dần”.

    Tiêu Hiệp nói đến đây, trong hội chúng mọi người đều nghe thấy, tôi liền hỏi cô ta: “Cô đã biết sự lợi ích của việc niệm Phật, tại sao lại không dạy em gái cô xưng niệm danh hiệu Phật, hai thời sớm tối để có thể ai ăn nấy no, tội nghiệp của người nào thì người đó tự tiêu, tự mình biết niệm há chẳng lợi ích còn lớn hơn sao?”. Tiêu Hiệp đáp: “Tôi đã có dạy nó niệm, tôi còn thỉnh Tây phương Tam Thánh về an vị cho nó rất trang nghiêm, nhưng mà bốn đứa con nhỏ của nó cứ quấn lấy bên mình, không rảnh để nghe Phật pháp, làm sao mà có thể niệm được như pháp đây? Tôi từ ba năm nay nghe bà giảng pháp môn Tịnh độ không hề gián đoạn, hiện nay đi, đứng, ngồi, nằm tâm không rời Phật, Phật không rời tâm, quyết định đời này thoát khỏi biển khổ sanh tử này”. Tôi nghe xong rất là khen ngợi, nếu không phải cô ta dụng công em gái và cháu gái ngay nơi bờ vực sanh tử được?

  14. 14. NƠI Ở CỦA HUNG THẦN HÓA THÀNH TỐT LÀNH

    Từ xưa đến giờ trong nhà Phật có câu thành ngữ: “Một người con trì trai thì ngàn Phật hoan hỉ, cửu huyền thất tổ được siêu sanh”. Câu này lại là sự thật. Một câu danh hiệu Phật có thể tiêu tai giải oán, nơi ở của hung thần hóa thành tốt lành. Các vị nếu không tin, tôi xin đưa ra một việc để chứng minh.

    Việc này xảy ra tại Tân Trúc Văn Nhã Bố giáo sở. Đây là một đạo tràng Tịnh độ tông ở Đài Trung mà chúng tôi mở ra để các liên hữu trong liên xã hoằng pháp. Từ tháng 4 năm Dân quốc thứ 44 sáng lập đến nay, cứ cách một tuần là giảng kinh một lần, chưa từng gián đoạn. Trong hội chúng có một vị liên hữu nam, mọi người đều gọi là anh Kiềm. Có một hôm anh Kiềm này nói với những nhân viên hoằng pháp rằng: “Pháp môn niệm Phật thật là tốt, thật có thể lợi ích chúng sanh, chắc chắn có cảm ứng lớn”. Các nhân viên hoằng pháp hỏi anh ta: “Anh niệm Phật được cảm ứng gì?”. Anh Kiềm liền nói: “Tổ tiên nhà tôi có một phần mộ rất kỳ lạ, từ rất lâu đến nay không thể nào tảo mộ, cũng không thể cúng tế được. Nếu như cúng tế thì sau khi cúng về, không bệnh thì cũng chết! Nếu như có mục đồng dẫn trâu, dê ăn cỏ trên mộ hoặc là giẫm đạp trên mộ, mục đồng và trâu, dê đó sau khi về nhà, người và vật không chết thì cũng bệnh nặng. Vì cớ này nên dân địa phương đều không một ai dám chạm đến phần đất của ngôi mộ này”.

    Đến năm Nhật Bản đầu hàng, Đài Loan được khôi phục, một người anh họ của tôi nói với tôi rằng: “Ngôi mộ kỳ lạ đó của chúng ta, hiện nay mộ bia đỏ hết phân nửa, nếu đi tảo mộ, nhất định con cháu thêm phước phát tài”. Tôi nói: “Tôi không dám nghĩ đến, tôi cũng không cần dựa vào phần mộ đó để thêm phước phát tài”. Người anh họ đó lại nói: “Chú không đi, thì tôi tự đi quét dọn cúng tế cũng được”. Đến ngày tiết Thanh minh, người anh họ của tôi quả nhiên chuẩn bị ba thứ gia súc, rượu lễ đến trước mộ cúng tế. Việc này trải qua sau đó một tháng, ba đứa con trai của người anh họ tôi lần lượt chết hết! Các vị thử nghĩ xem việc này có đáng sợ hay không? Tôi tin rằng không có người nào từng nghe qua việc quái dị như thế!

    Đến sau khi nạn lụt “bát thất” năm Dân quốc 49, lại có một người anh họ đến nói với tôi: “Ngày hôm qua tôi đi ngang qua cái nơi quái gở đó, nhìn thấy mộ bia bị nước cuốn ngã đi, đầu mộ cũng bị nước xoáy một lỗ lớn, nếu như không sửa sang, mộ này nhất định sẽ sụp tiêu đi, nếu sửa sang lại không dám động đến, do vì nếu như vừa động đến liền xẩy ra đại họa! Làm sao bây giờ?”. Tôi liền nói: “Không sao đâu, chúng ta đi sửa sang đi!”. Người anh họ đó vui mừng nói: “Chú biết cách sửa sang cứ làm đi, tất cả tiền công, cát đá, xi măng đều do tôi lo liệu, nhưng mà chú chừng nào thì làm?”. Tôi nói “Đợi một tháng nữa”.

    Tôi từ khi nghe được pháp môn Tịnh độ, mấy năm nay hai thời khóa sáng tối chưa từng gián đoạn. Từ lúc nhận lời chắc chắn sửa sang cái phần mộ kỳ lạ kia, hai thời khóa sáng tối xong, tôi liền hồi hướng cho tổ tiên của phần mộ đó, đồng thời chí tâm, khẩn thiết cầu xin Phật, Bồ Tát rằng: “Bạch Phật và Bồ Tát, xin phò hộ cho con, con sau khi biết tin Phật, bạn bè thân thích đều nói con là mê tín, lạc hậu, con lần này nhất định muốn thỉnh cầu Phật, Bồ Tát thi triển Phật pháp vô biên cho họ thấy, xin Phật, Bồ Tát phò hộ cho con, sau khi sửa sang phần mộ, đừng có xảy ra những sự việc tai hại cho người và vật.”. Tôi mỗi ngày sau khi xong hai thời khóa sáng tối, đều cầu nguyện như thế.

    Đêm trước tới ngày sửa sang, tôi càng khẩn thiết cầu xin, nửa đêm bèn nằm mộng, thấy phần mộ đó, có một phần mộ nằm phía Bắc hướng về Nam, mặt trước có một khe nước nhỏ, nước trong khe trong vắt, chảy về phía trước, hai bên mộ có hai cây đại thọ cao lớn, mộ bia ngã xuống, ở đầu phần mộ lộ ra một cái hang tỏ rõ sự suy sụp hoang vắng. Bỗng nhiên trong mộ xuất hiện một người con gái hung dữ, trang phục theo lối cổ, lúc đó tôi rất là sợ, liền chắp tay lại niệm “Nam mô A Di Đà Phật”… Nam nữ đứng gần đó xem rất đông, trong đó có một ông già nói với tôi rằng “Đứa con gái này trước là một con quỷ nữ rất hung dữ, do vì con cháu đời sau của nó niệm Phật, bây giờ nó đã trở thành con quỷ lành rồi”. Tôi nhìn thật rõ ràng, nghe cũng rõ ràng, lúc tỉnh lại thì ra chỉ là giấc mộng, trong lòng nghĩ cảnh giới này trong giấc mộng nhất định là Phật, Bồ Tát, đại từ đại bi, đại oai thần lực dẫn mình đi xem trước, để ngày mai mình có thể an tâm đi sửa sang ngôi mộ. Sáng sớm, người anh họ của tôi đến nói: “Kiềm à, tôi dẫn thợ cùng tất cả những dụng cụ như xi măng, cát đá đều đem đến cả rồi, chú đi nhanh đi!”. Tôi mới hỏi: “Tôi xin hỏi anh phương hướng và tình trạng chung quanh ngôi mộ đó và người chôn trong mộ có phải là người nữ không?”. Anh họ của tôi kinh ngạc nói: “Chú có phải đã đi xem qua trước rồi không? Nếu không thì chú làm sao biết được?”. Tôi mới nói “Đêm qua tôi mộng thấy”.

    Tôi đi mua hương hoa, quả phẩm và đem theo quyển khóa tụng. Đến trước mộ nhìn xem, quả nhiên giống y như cảnh đã thấy trong giấc mộng đêm qua. Tôi mới bày các hương hoa quả phẩm ra, đốt đèn hương lên, lễ lạy nói: “Tôi hôm nay là chỉ đến sửa sang phần mộ của bà, trước sẽ tụng kinh A Di Đà, chú vãng sanh và Thánh hiệu A Di Đà Phật cho bà, bà cũng phải niệm Phật thì cũng sẽ lìa khổ được vui, nhất thiết không được hại người, chẳng những không được hại người trong nhà, cũng không được hại người khác”. Sau khi nói xong, liền ở trước mộ tụng kinh niệm Phật, sau đó mới bắt đầu làm cỏ, ban đất, sửa sang, rửa mộ bia đá cho sạch, nhìn xem tên khắc trên mặt bia tính ra chính là bà nội của ông nội tôi. Tôi và nhóm thợ từ đó đến giờ vẫn bình yên vô sự.

    Chuyện kể đến đây, chắc có người vẫn nhất định không tin. Thọ mạng của quỷ làm sao có dài như thế? Mời các vị xem trong kinh nói đây: “Đọa lạc vào cảnh giới quỷ, thọ mạng ngắn nhất là năm trăm tuổi”. Mà một tháng ở nhơn gian thì chỉ bằng một ngày ở cảnh giới quỷ thôi. Như thế tính ra thì biết thọ mạng của loài quỷ vừa dài vừa khổ! Có người vẫn còn nghi hoặc: tại sao tổ tiên lại đi hại con cháu mình? Trong kinh Phật có nói: “Chúng sanh ngã chấp ngã kiến, phải ở trong lục đạo đời đời kiếp kiếp. Ta, ngươi tranh đoạt, ngươi giết ta, ta giết ngươi, cùng nhau gây tạo nhân quả, kết ân báo ân, kết oán báo oán, đòi nợ trả nợ, cứ như thế mãi không dứt!”. Tổ tiên của anh Kiềm cùng với cái quá khứ của ngôi mộ quái lạ kia, chắc chắn là đã kết oán thù với nhau rất nặng, không cởi mở được, cho nên mới hung ác hại người như thế, nếu như không có anh Kiềm chánh tín niệm Phật, dùng sức đại từ đại bi của Phật, thì không cách gì tiêu giải được oán cừu này. Do đây xin khuyên các vị cố gắng niệm “Nam mô A Di Đà Phật” nhiều lên.

  15. 15. THUỐC A GIÀ ĐÀ TRỊ ĐƯỢC VẠN BỆNH

    Nhân duyên hoằng pháp của Liên xã Đài Trung đến miền Đông, khởi đầu từ đại hội diễn giảng của liên xã Đài Trung nhân dịp tân xuân năm Dân Quốc thứ 43. Trong thính chúng có vị nữ sĩ Hồng Lâm Trản liên tục năm ngày nghe giảng. Từ Đài Đông xa xôi đến đây, thời gian ở Đài Trung, bà ta ở cửa hàng bách hóa Vĩnh Phong, được sự chiêu đãi chân thành của Hoàng Hỏa Triều cư sĩ Ký phu nhân Nguyễn Miến. Lúc bấy giờ nữ sĩ Lâm Trản rất xanh xao, vàng vọt, trên cổ đeo một sợi dải băng, chốc chốc lại ho, bà ta hỏi Hoàng phu nhân: Ở Đài Trung có bác sĩ giỏi không, dẫn bà ta đi xem bệnh. Ở Đài Đông bà đã từng đi rọi X quang nghe nói là phổi bên trái có ba lỗ. Mấy tháng nay uống cả ký Cao ly sâm chính hiệu và chích hơn một trăm mũi thuốc, đều không thấy hiệu quả!

    Lúc đó là khoảng 5 giờ chiều, nhà họ Hoàng là một gia đình Phật tử thuần thành, hai thời khóa sớm tối từ nào tới giờ chưa từng gián đoạn, bà Hoàng phu nhân Nguyễn Miến mời bà Trản đến bàn thờ lạy Phật, còn lấy một xâu chuỗi, chỉ cho bà ta phương pháp niệm Phật và nói rõ về đạo lý trị hết được muôn bệnh của môn thuốc A Già Đà này cho bà ta nghe. Khóa tụng xong còn cầu nguyện xin một ly nước chú đại bi cho bà ta uống. Sau buổi cơm tối bà Miến liền nói: “Chị Trản à, chị thật là có phước, bắt đầu từ tối nay, Liên xã của chúng tôi liên tiếp giảng pháp năm ngày”. Tối đó liền dẫn bà ta đi nghe giảng. Thật là không thể nghĩ bàn, đêm đó bà Trản suốt một giờ không ho một tiếng nào, khi ngủ, ngủ thẳng đến sáng. Bà Trản cảm thấy Phật pháp thật là lý thú, ở nhà họ Hoàng ban ngày chí tâm niệm Phật, đến tối đi nghe giảng, liên tục năm ngày, một phần khái luợc về Phật pháp sơ cơ đã hiểu được đôi chút, tinh thần đã có chỗ nương tựa, sức khỏe cũng tốt rất nhiều. Bà than thở: “Người ở Đài Trung rất là có phước, người Đài Đông chúng tôi chưa từng được nghe qua chánh pháp sâu sắc như thế này!”. Bà Miến đáp lại: “Chị hiện nay đã hiểu rõ được cái hay của việc tin Phật, niệm Phật, chị nên phát Bồ đề tâm, thỉnh nhân viên hoằng pháp của Liên xã đến nơi của chị hoằng dương Phật pháp, khiến những chúng sanh có duyên cũng được lợi ích, thì công đức của chị thật là vô lượng!”. Bà Trản nghe xong, vui mừng nhận lời, nói: “Được! Vậy thì nhờ chị thỉnh dùm. Tiền xe hay tiền máy bay đi lại, tôi chịu hết, nhưng chị cũng phải cùng đi tới chỗ tôi chơi mới được”.

    Giao thông từ 14 năm về trước không tiện lợi như ngày nay, đi Đài Đông chỉ một ngày là đến rồi. Lúc bấy giờ phải mất hai ngày, phải ngủ một đêm ở Cao Hùng. Cuối cùng một đoàn ba nguời: bà Trản, bà Miến cùng với Pháp Viên. Khi ngủ lại phòng trọ ở Cao Hùng, thì xảy ra việc linh cảm Phật, Bồ Tát phò hộ. Nguyên là trên chân của Pháp Viên có cái mụt nhọt, đã từng trị liệu hơn một tháng, bị lầy rữa ra hai tấc, chung quanh không còn cảm giác đau nữa. Lúc bấy giờ vì nhiệt tình, quên đi cái mụt nhọt trên chân, nhưng đến phòng trọ ở Cao Hùng, phát đau đến mức không chịu nổi, bà chủ phòng trọ nhìn thấy chân của khách đau ghê gớm như thế, liền giới thiệu nói, ở vùng này có một loại thuốc mỡ cỏ xanh tinh luyện rất hay, có thể trị được bệnh này, liền nhờ người mua hai hoàn. Vừa thoa vào, thật là loại thuốc có công hiệu đặc biệt: hết đau, nuôi thịt, sanh da, ba phần đều tốt, sáng hôm sau khỏi được phân nửa, ba ngày sau khỏi hẳn. Đây đều là sự linh cảm của Phật, Bồ Tát từ bi đặc biệt gia hộ, thật là thuốc đến bệnh tiêu, nếu không thì đi không được rồi.

  16. 16. NƯỚC ĐẠI BI KHIẾN CHO THAI ĐÃ CHẾT SỐNG LẠI

    Pháp Viên giảng năm ngày tại chùa Hải Sơn ở Đài Đông. Ngày viên mãn, những người nghe và người giảng sắp sửa chia tay, cái lúc lưu luyến không rời, bỗng nhiên có một bà lão khoảng hơn sáu mươi tuổi đến, đưa ra một câu hỏi: “Những điều của cô giảng đều là những đạo lý giải thoát sanh tử luân hồi, cho đến cải ác hướng thiện, thay đổi tâm tánh. Nhưng bây giờ yêu cầu tiêu trừ bệnh hoạn, giải quyết những đau khổ, thì lại phải cầu pháp như thế nào? Cô có thể từ bi chỉ bày cho được không?”.

    Pháp Viên lúc đó nhìn xem bà lão này trên cổ có một cái nhọt lớn cổ áo cài lại không được, hở ra khoảng năm – sáu tấc, Pháp Viên suy nghĩ người ngày ắt là muốn cầu phương pháp tiêu trừ bệnh nhọt của bà ta, lúc đó thiệt là tiến thối lưỡng nan, nếu như bảo bà ta cầu Phật, Bồ Tát gia bị, cái nhọt lớn trên cổ sẽ hết, chưa chắc nắm chắc được không? Nếu như không bảo bà ta cầu, nhưng mà đã phô trương Phật pháp vô biên năm ngày rồi, có cảm ứng không thể nghĩ bàn, chung quanh lại có đông người đang chờ nghe, Pháp Viên nhứt thời phải dùng phương tiện khéo léo đáp rằng: “Nếu như yêu cầu tự mình hoặc là người khác tiêu tai thoát nạn, hết bệnh khổ v.v… nhất định phải sớm tối tụng niệm một quyển kinh A Di Đà, bảy biến chú vãng sanh, vài trăm câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, hoặc vài ngàn câu, vài muôn câu càng tốt; nếu như người không biết tụng kinh A Di Đà, thì chỉ niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật cũng được, nhưng nhứt định phải tụng bài Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung… sau đó có yêu cầu điều gì thì lại dùng tâm chí thành, niệm Thánh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát và gia trì nước chú Đại bi cho uống, nếu thọ mạng ở đời chưa dứt, thì có thể giảm nhẹ đau khổ của bệnh tật; còn nếu thọ mạng ở đời sắp hết, thì nhờ sức công đức của khóa tụng niệm Phật được vãng sanh Tây phương, như thế thì được mãi mãi thoát ly bệnh khổ và tử khổ. Đây là phương pháp rốt ráo vậy”.

    Ngày tháng như thoi đưa, thời gian như tên bay, thoáng một cái đã một năm trôi qua, Lâm Trản ở Đài Đông lại đến Liên xã, lần này sắc mặt tươi rói vui vẻ, so với năm ngoái như là hai người, bệnh chứng của bà ta đã dứt hẳn không còn thấy tăm hơi gì nữa, trọng lượng thân thể cũng tăng hơn mười kí, y phục toàn là đồ mới may, đồ cũ không còn cái nào mặc vừa nữa, bà ta nói với Pháp Viên rằng: “Thưa bậc nhân sĩ của Đài Đông, mọi người đều yêu cầu tôi đến mời bà đến Đài Đông giảng diễn Phật pháp lần nữa, không những tôi niệm Phật được cảm ứng, mà còn bà Phổ Ái Cô, trên cổ có mụt nhọt to, bà dạy bà ta phương pháp niệm Phật và thời khóa tụng niệm, về sau lại xin nước Đại Bi chú uống, bà ta ngày ngày đúng như pháp mà làm, cái mụt nhọt to của bà ta đã hết hẳn, cổ áo cũng đã cài lại được rồi, ai thấy cũng đều khen là “kỳ diệu””

    Bà Trản lại nói tiếp: “Không những mụt nhọt to của Phổ Ái Cô tiêu trừ, được cảm ứng, cái việc càng khiến cho người khó tin hơn nữa chính là việc con dâu của Phổ Ái Cô, cô ta ở trên núi vùng phụ cận của Đài Đông, đã có mang mười tháng, người phụ nữ này rất là siêng năng làm lụng, tự nghĩ sắp tới ngày sanh nở rồi, trong ngoài cần phải dọn dẹp cho sạch sẽ, cả phân trong chuồng heo cũng gánh hết mấy gánh, không ngờ từ hôm đó thai nhi ở trong bụng không còn động đậy nữa, hỏi thăm những người lớn ở trên núi, người ta nói là lúc quét dọn làm sạch chuồng heo động thổ, động đến thai khí, đến ngày thứ ba vẫn không động đậy gì, người phụ nữ mang thai này, sáng sớm đã xuống núi đến tìm mẹ chồng cô ta, Phổ Ái Cô lại không có ở nhà, cô ta tự đi đến khoa phụ sản để khám, bác sĩ phụ sản nói: “Thai nhi ở trong bụng của cô chết đã ba ngày rồi, tự mình sanh không phải là việc dễ, ắt phải dùng đến khí cụ cắt thai nhi ra từng miếng, từng miếng lấy ra, hoặc là phải phẫu thuật mới đem thai nhi chết ra được. Ngoài ra không còn cách nào khác”.

    Người phụ nữ mang thai đắn đo suy nghĩ, việc phẫu thuật lấy thai nhi ra không phải là việc nhỏ, không có mẹ chồng hay chồng cho phép, cô không dám chủ động, liền trở về trên núi, lại trải qua bốn ngày nữa, thai nhi trong bụng vẫn không có động đậy gì, cô ta lại xuống núi lần nữa tìm mẹ chồng: Phổ Ái Cô, nói rõ việc thai nhi bất động đã bảy ngày rồi, Phổ Ái Cô liền dẫn con dâu đến một bác sĩ phụ khoa khác khám. Vị bác sĩ này cũng chẩn đoán y như vị bác sĩ trước, nói thai đã chết trong bụng bảy ngày rồi, không cắt thai nhi ra từng miếng từng miếng lấy ra, hoặc phẫu thuật thì không được! Phổ Ái Cô dẫn con dâu đi về, quỳ trước bàn Phật, thắp hương đốt đèn dạy con dâu xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, bà ta bắt đầu tụng kinh. Sau đó niệm một ly nước chú đại bi, bảo con dâu uống và phải chí tâm cầu xin Phật, Bồ Tát phò hộ, hy vọng tử thai trong bụng con dâu sanh ra được cách tự nhiên, không phải đau đớn, phiền phức vì mổ xẻ, lúc đó mặt trời cũng đã lặn rồi, Phổ Ái Cô liền giữ con dâu ở lại ngủ với bà không phải về núi. Đang ngủ nửa đêm con dâu bà kêu mẹ chồng nói: “Thai nhi trong bụng động đậy lại rồi”. Mẹ chồng cô ta đáp lại cô ta rằng: “Chắc là Phật, Bồ Tát phò hộ, tử thai sắp sanh ra đấy”. Đến sáng, thai nhi của người phụ nữ mang thai này đã động đậy bình thường như trước, sức khỏe cũng khỏe khoắn nhiều, không còn chút gì khó chịu nữa, liền lại trở về trên núi, lại trải qua một tuần lễ, người phụ nữ mang thai này sanh ra một bé trai rất là thuận lợi, mẹ con đều bình an vô sự. Hồng Lâm Trản đến Liên xã nói ra việc này, thật là một sự linh cảm kỳ dị, rất nhiều người nghe, chắt lưỡi khen là kỳ lạ mãi không thôi.

  17. 17. TÉ XUỐNG LẦU BỊ THƯƠNG, QUA NGÀY SAU KHÔNG SAO

    Lần thứ hai đến Đài Đông, nơi khoảng đất trống lớn chùa Hải Sơn liên tiếp giảng năm ngày, khuyên người niệm Phật sửa ác làm lành, những thiện tín phát tâm cả một vùng miền Đông đều đến ước hẹn đi kết pháp duyên, mỗi nơi đều ước định ba ngày. Năm ngày ở Đài Đông viên mãn, liền đến Tân Cảng. Đoàn này do ba vị ở Đài Đông phát Bồ đề tâm lãnh đạo, đó chính là Hồng Lâm Trản, Trần Ngọc Phương và một vị lão Bồ Tát khác, thêm vào hai vị: Pháp Viên và Huệ Lâm ở Đài Trung, tổng cộng là năm người, ngủ lại trong một ngôi chùa kiểu Nhật thời kỳ Nhật chiếm cứ, địa thế, phong cảnh đều rất tốt, phía sau hướng ra biển, chiều tối các thuyền đánh cá trở về thắp đèn nhấp nháy giống như một bức tranh vẽ, cảnh sắc mê người, đến nay nhớ lại vẫn như ở trước mắt, ba ngày hoằng pháp đều ở trong ngôi chùa này, Phật, Bồ Tát cũng ban cho một cảm ứng đặc biệt.

    Sự việc là vào buổi sáng ngày thứ hai, có người đến chùa nói: “Có một bà tối qua đến nghe Phật pháp về nhà, leo lên trên lầu liền bị té xuống, khắp mình đau nhức khó chịu, kêu la cả đêm, không thể cử động, chỗ nào bị thương vô phương chẩn đoán, xin nhờ các vị tiêu trừ tai ách cho bà”. Pháp Viên nghe nói như tiếng sét giữa trời nắng, không biết làm sao, đành phải cùng với vị sư đương gia ở chùa và Huệ Lâm, ba người đến nhà bà ta, lên lầu liền nhìn thấy bà lão khoảng bảy mươi tuổi này đang nằm rên rỉ trên giường, rất là tội nghiệp, Pháp Viên liền quỳ xuống trước tượng Phật của họ thờ một cách đơn giản, dùng tâm chí thành khẩn thiết hướng lên Phật, Bồ Tát cầu nguyện rằng: “Vị lão tín nữ này là người tối hôm qua đi nghe pháp về nhà té xuống lầu bị thương. Nếu như không phải đến nghe Phật pháp thì đối với chúng tôi không can hệ gì, do vì chúng tôi thành tâm thành ý đến đây khuyên người niệm Phật, sửa ác làm lành khiến cho người thoát khổ được vui; không may xảy ra tai nạn ngoài ý muốn này, khiến cho tâm chúng tôi không yên, bạch Đức Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát, các ngài cũng phải chịu một phần trách nhiệm, nhanh chóng biến hóa cứu giúp cho bà già này tức thời sức khỏe được hồi phục mạnh khỏe, bình an vô sự. Nếu không thì bà lão này nếu như bị chết thì khó tránh khỏi người ta chê cười Phật pháp không linh!”. Sau khi khấn thầm như thế liền tụng một phẩm Phổ Môn, niệm Thánh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát và gia trì một ly nước chú đại bi, tự tay đưa cho bà ta uống, cũng dạy cho bà ta niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, đến trưa ngày hôm sau, sức khỏe của bà lão này đã an nhiên vô sự, tinh thần khoan khoái có con dẫn đi, trong tay cầm một cây gậy chống, đi bộ đến chùa lạy Phật và hướng về đại chúng nói lời cám ơn. Đây không phải Phật, Bồ Tát gia bị, làm sao được hồi phục dễ dàng như thế! Đến bây giờ nhớ lại vẫn còn cảm thấy mắc cười, lúc đó trong lòng của Pháp Viên hoảng loạn như đang có tang, đau khổ không chịu nổi, vì là sợ hai chữ “Phật giáo” bị người hủy báng.

  18. 18. BỒ TÁT GIA BỊ KHAI MỞ TRÍ TUỆ CHO TÔI

    Giảng ở Tân Cảng ba ngày xong, một đoàn năm người lại đi đến Quan San giảng ba ngày. Cuối cùng lại đi chùa Hoa Sơn ở Ngọc Lý, chùa này là một chùa Tịnh độ tông vào thời Nhật chiếm cứ, dưới sự sắp đặt của vị Đại hộ pháp và chấp sự chùa này, mỗi tối khai giảng ở miếu Đế Quân, nơi trung tâm của phố xá rất là náo nhiệt, thính chúng rất dễ tụ tập. Giảng đến ngày thứ hai, Phật, Bồ Tát lại hiển kỳ tích. Trưa hôm đó bỗng nhiên có một vị cư sĩ nam ở tỉnh khác đợi tôi ở phòng khách, nói là muốn đàm luận Phật pháp, trao đổi ý kiến. Vị cư sĩ đó trước tự giới thiệu tên họ và nói là quy y với một vị đại pháp sư nào đó ở Đài Bắc, hiện nay thì chỉ chuyên nghiên cứu Thiền tông. Nghe ông ta nói như nước chảy suốt hai mươi phút, thì đã biết ý định đến đây của ông ta, không phải đơn giản có thể đối phó được!

    Lúc đó trong tâm tôi khấn thầm đức Quán Thế Âm Bồ Tát gia bị khai mở trí tuệ cho tôi để có thể ứng phó theo ý muốn, đối đáp trôi chảy, nếu không thì hôm nay bị xui xẻo rồi! Vị đại đức đó thấy tôi dùng tiếng quốc ngữ lựng khựng, hỏi đâu đáp đó, gương mặt của ông ta hơi khẩn trương hỏi một câu: “Tối qua nghe bà giảng Tịnh độ tông, sau khi chết thần thức vãng sanh về Tây phương. Thần thức nó ra làm sao, lấy ra đây cho tôi xem!”. Tôi liền trả lời ông ta: “Câu ông vừa mới nóùi, nó ra làm sao, lấy ra đây cho tôi xem coi!”. Lúc đó trong nhà khách một bầu không khí yên tĩnh, bốn mắt nhìn nhau lặng yên không nói, tôi lại trả lời ông ta một câu: “Nói cho rõ một chút, ông ban đêm nằm mộng cái đó là thần thức”. Ông ta khựng lại một chút, rồi quay đầu mà đi. Tôi sợ ông ta xấu hổ thành giận, lại tìm đến quấy rầy, bèn nói với vị trụ trì rằng: “Vị đại đức kia nếu lại đến tìm tôi thì sư nói “bây giờ đang chuẩn bị giảng, xin lỗi!”, là được rồi”. Vị sư trụ trì nói với tôi rằng: “Cái người đó rất là quái gở, có vị đại đức hay cư sĩ nào đến giảng Phật pháp, hoặc giảng những sách thiện, ông ta đều đến vấn nạn mấy câu, khiến người ta không thoát ra được, có người không cách gì ứng phó liền bỏ đi”.

    Thật là ngoài dự liệu, ngày hôm sau, ông ta đã cùng mười mấy người bạn nam ngồi hàng phía trước nghe giảng một cách rất thành tâm thành ý. Sáng ngày hôm sau còn đến nói: “Thỉnh cư sĩ giảng thêm vài ngày nữa, ngày hôm kia tôi rất là bội phục trí huệ của bà, cho nên đi tuyên truyền, khuyên được mười mấy người bạn đến nghe giảng, tối nay sẽ càng tăng thêm số thính chúng”. Đến nay nhớ lại tình hình lúc đó vẫn còn run, nếu không phải Phật, Bồ Tát thầm gia bị cho, thì một Pháp Viên([1]) ngu ngốc từ nào, làm sao có được tài năng đối đáp cùng vị đại đức tông môn đó?!

  19. 19. CHÍ TÂM NIỆM PHẬT, KHẮC PHỤC ĐƯỢC TAI NẠN GIÓ LỬA

    Cư sĩ Trần Ngọc Phương ở đường Bảo Tang phố Đại Đồng thị trấn Đài Đông. Cô ta trước kia khi chưa nghe Phật pháp là một chuyên gia trang phục, là người thông minh, vốn đầy đủ trí huệ, sau khi nghe được pháp môn Tịnh độ liền giác ngộ đời người vô thường, vạn pháp đều không, liền bỏ nghề may đồ cưới cho người, đến chợ mua hai xâu trân châu, về nhà xỏ lại làm thành một xâu chuỗi, sớm tối bắt đầu khóa tụng, ngày ngày niệm Phật không ngừng. Đây là về mặt tự lợi, đồng thời phát tâm Bồ đề mong muốn đem lợi ích đến cho người khác. Lúc bấy giờ thiện tín ở Đài Đông đều là hàng sơ cơ học Phật, rất ít người niệm Phật, cư sĩ Ngọc Phương từ cục bưu chính chuyển 500 đồng tiền Đài Loan mới đến thư cục Thụy Thành mua năm mươi xâu chuỗi, về sau lấy chuỗi đến nhà những bạn thân dạy họ niệm Phật và cho họ những xâu chuỗi đó.

    Có một hôm cư sĩ Ngọc Phương tay cầm chuỗi đến xưởng nước tương Nhựt Đông khuyên người niệm Phật, người chủ của xưởng tên Hà Tằng Thanh, Hà phu nhân tên là Quai, lúc đó nhà của ông ta ở đường Nhân Ái (tên cũ là đường Thảo Lịch). Đài Đông 14 năm trước không giống như bây giờ: nhà lầu xi măng cốt thép mọc đầy. Lúc bấy giờ phần lớn nhà vẫn còn làm bằng ván, cho nên xưởng nước tương Nhựt Đông cũng thế, cũng làm bằng cây ván và lợp lá. Có một hôm cư sĩ Ngọc Phương tay cầm chuỗi lại đến nhà họ Hà dạy A Quai niệm A Di Đà Phật, đang lúc nói chỗ hay của niệm A Di Đà Phật, bỗng nhiên nghe tiếng người ầm ĩ huyên náo ngoài đường, tiếng còi hơi báo động vang lên rất khẩn trương, có người la lớn: “Xưởng nước tương Nhựt Đông bị cháy”. Ngọc Phương và A Quai quay đầu nhìn ra ngoài, xe cứu hỏa màu đỏ của cục Cảnh sát đã đậu ngoài cổng, lại quay đầu nhìn ra phía sau, thì ra lửa phát lên nhà kế bên phía bên phải, đã lan đến công xưởng phía sau của mình, đầy nhà khói bay mù mịt, hôm đó đang là ngày công xưởng được nghỉ, người nhà và công nhân đều đã đi chơi bên ngoài, chỉ có mỗi mình Hà phu nhân A Quai ở nhà.

    Lúc bấy giờ cư sĩ Ngọc Phương và A Quai vừa thấy thế của lửa đã tràn vào nhà, đang lúc nguy hiểm tột cùng đó, liền quỳ xuống đất chắp tay lại chí tâm niệm: “Nam mô Ai Di Đà Phật, Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”. Niệm được chưa tới năm phút, thật là “Năng phục tai phong hỏa. Phổ minh chiếu thế gian” (tức chỉ Quán Thế Âm Bồ Tát ), liền tức thời nổi lên một trận gió Nam, thổi thế lửa đi thẳng hướng về phía sau, năm ngôi nhà lá nhỏ phía sau lập tức bị đốt thành tro, may mắn là công xưởng nước tương và cửa hàng của A Quai đều không việc gì, chỉ có lúc nhà kế bên mới phát hỏa thiêu cháy mười mấy tấm ván vách chung với nhà kế bên thôi.

    Nói đến đây, có lẽ có người sẽ hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát tại sao chỉ cứu người niệm danh hiệu của Ngài, mà năm ngôi nhà lá không biết niệm Phật kia thì phó mặc cho lửa, không ra tay cứu? Nên biết rằng lúc đó con đường Nhân Ái của các nhà lân cận là một con đường nhỏ rất dài, nếu như nhà của A Quai bị lửa cháy, thế của lửa hướng về phía Bắc thì sẽ lan ra hết con đường này và khi đã phát lửa rồi thì không thể thu dọn gì kịp, như thế tổn thất không sao tính cho xuể, đồng thời năm ngôi nhà lá nhỏ kia cũng không chắc được may mắn thoát khỏi. Thật là Phật, Bồ Tát phò hộ việc lớn hóa thành việc nhỏ, việc nhỏ hóa thành không, cũng là may mắn gặp được thiện tri thức sư tỷ Ngọc Phương từ bi, phước đức che chở.

  20. 20. ĐẾN LÚC VIỆC XẢY RA MỚI ÔM CHÂN PHẬT CŨNG CÓ HIỆU QUẢ

    Cư sĩ Trần Phi Lâm công chức hãng đường Đài Đông là một vị Phật tử thuần thành, nhưng vợ của ông ta lúc đầu chống đối kịch liệt ông chồng tin Phật, niệm Phật, tuy nhiên Trần cư sĩ cũng không thối tâm chút nào, vẫn cứ tinh tấn, và một mặt với tâm từ bi cố sức khuyên vợ rằng: “Chúng ta có miệng phải nên niệm Phật A Di Đà tức là cái vốn cho sau này được vãng sanh Tây phương, nhưng trước khi chưa được sanh Tây phương, cũng có thể gặp dữ hóa lành, tiêu tai giải nạn, đối với bản thân có sự lợi ích không gì bằng”. Bà Trần được ông chồng hàng ngày cảm hóa như thế, lại cứ như đàn khảy tai trâu, hoàn toàn chẳng nghe. Tuy thế bà Trần này lại là một bà chủ giỏi khéo coi sóc việc nhà vừa cần cù vừa tiết kiệm, có lúc còn lên núi kiếm củi, gánh một gánh củi lớn xuống núi, rồi ngồi một chiếc xe lửa nhỏ cuối cùng về nhà. Nhưng có một lần bà Trần gánh củi xuống núi, không ngờ mặt trời đã lặn, chiếc xe cuối cùng đã chạy rồi, chiếc xe lửa nhỏ trên núi là xe kéo mía, không phải là xe chuyên chở khách, cho nên sau khi chuyến xe cuối cùng chạy đi rồi, thì ai tự về nhà nấy, không có ai ở lại trạm xe cả. Trời đã tối, bà Trần trên vai gánh một gánh củi lớn, tự mình khích lệ sức mạnh, quyết định đi bộ về nhà, một thân một mình thuận theo con đường sắt, đi giữa đường ray tiến thẳng về phía trước. Lúc đi được nửa đường đột nhiên thấy giữa đường ray phía trước một bóng đen của một đại hán đang đứng, lúc ấy bà Trần càng đi thì càng gần, nhìn càng rõ, toàn thân lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi quăng gánh củi trên vai do vì bà đã hết sức gánh tiếp. Bà Trần đang lúc đêm đen có một mình nhìn thấy bóng đen kia, trong khoảnh khắc đó, bỗng nhiên nhớ lại việc mấy năm trời được chồng huân tập cho một câu chú vương từ nào không chịu đón nhận, nhứt là không hề muốn niệm, đang lúc vô cùng nguy cấp này, việc đến mới ôm chân Phật, bà đứng ngay nơi đó, không kềm được chắp tay lại, to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Niệm được vài phút, cái bóng đen của đại hán đó, dường như đã có cái dạng bước sang một bên rồi và dần dần mất tiêu luôn. Bà Trần nhìn thấy thật rõ ràng, liền vội vã đi nhanh lên, cả đến gánh củi cũng không màng đến.

    Trên đường chạy về nhà của bà Trần, trong miệng vẫn không ngớt niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Nhưng đi được một hồi bỗng nhiên đôi chân không thể đi được nữa, lúc đó trong bụng bà Trần cảm thấy rất lỳ lạ. Tại sao mà đôi chân bỗng nhiên không đi được nữa, liền cố gắng tự phấn chấn tinh thần lên, khom lưng xuống tay mò xuống đất. Bà Trần dùng tay mò dưới đất mới hay lại qua một lần đại nạn nữa, hóa ra chỉ cần tiếp tục đi về phía trước một bước nữa thì là rớt xuống một khe suối lớn rồi! Lắng tai nghe kỹ tiếng nước chảy trong khe rất là mạnh. Bà Trần lúc đó càng cảm tạ A Di Đà Phật đã từ bi cứu giúp, nếu như không phải hai chân bất động, đi tiếp một bước nữa thì rơi vào trong khe, bị nước cuốn trôi rồi, cả người nhà cũng không ai hay biết, sẽ mãi mãi ngậm hờn nơi chín suối. Lúc bấy giờ ở khe suối đó dùng miếng ván nhỏ làm cầu, bà Trần liền dùng cả hai tay hai chân như móc câu mà bò qua, xong mới thở ra một hơi nhẹ nhõm, thẳng lưng lên tiếp tục chạy về phía trước, liên tục ba lần, hễ đến bên bờ khe, thì chân tự động dừng bước, thật là không thể nghĩ bàn! Sai một bước không phải là chết đuối mà là té chết (bể đầu gãy xương…) do vì ban đêm nhìn không thấy rõ, nên bà Trần về đến nhà là đã 12 giờ khuya!

    Ngày hôm sau bà Trần trở lại gánh gánh củi quăng mất hồi tối, bà đã hỏi người ở trạm xe, bóng đen hồi tối qua nhìn thấy rốt cuộc là cái gì? Người ta liền nói với bà ta: Hồi trước có một người bị tai nạn chết ngay chỗ đó, có lẽ âm hồn không tan, nên thường hiện ra nơi đó. Câu chuyện trên đây là do Pháp Viên và cô Hoàng Chiêu Anh đến dự khánh thành liên xã Đài Đông và tham gia giảng diễn năm ngày, nghe được từ chính miệng bà Trần kể lại vào mồng 1 tháng giêng năm Dân quốc thứ 48.

  21. 21. TÉ XUỐNG KÊNH RẠCH, NIỆM PHẬT ĐƯỢC CỨU

    Chuyện trên là câu chuyện thật của bà vợ cư sĩ Trần Phi Lâm niệm Phật được cảm ứng, bây giờ lại nói một chuyện nữa: chuyện cảm ứng của cháu gái Trần Phi Lâm. Cô cháu họ này mới đầu cũng không tin Phật và cực lực phản đối lòng thành tin Phật của ông chú. Nhưng Trần cư sĩ rất từ bi, hễ gặp mặt là khuyên cô ta niệm Phật, giảng cho cô ta nghe về đời người ở thế gian khổ nhiều, vui ít, tai nạn nhiều, nghịch cảnh nhiều, phiền não nhiều, muốn lìa khổ được vui cần phải niệm A Di Đà Phật, lúc nguy cấp, sợ hãi càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Nhưng cô cháu của ông cũng chỉ như đàn khảy tai trâu, không chịu nghe theo!

    Mười mấy năm về trước, cháu gái của Trần Phi Lâm muốn dời nhà đến Hoa Liên kinh doanh buôn bán, cư sĩ Phi Lâm liền thỉnh tượng Tây phương Tam Thánh, lộng kiếng, tự mình đem đến bến xe Đài Đông cho cô ta. Lúc chia tay ông còn ân cần dặn đi dặn lại cô cháu phải chí tâm thành ý niệm A Di Đà Phật. Cô cháu họ Trần sau khi dời đến ở Hoa Liên kinh doanh buôn bán rất tốt, có một hôm do việc làm ăn cô đi vào làng, đến nửa đêm mới cỡi xe đạp về nhà, đi qua một con kênh bên đường lúc không để ý cả người lẫn xe đồng rơi xuống con kênh. Con kênh này chỉ sâu hơn người một chút mà thôi, tự mình rất dễ leo lên. Lúc đó cô cháu họ Trần phủi bụi đất trên mình, rồi xem lại tứ chi, không có bị thương chút nào hết, liền lo kéo chiếc xe đạp lên, lúc muốn kéo lên đó, lại rất kỳ quái, phía sau dường như có người kéo xe trở xuống. Cứ thế, hễ muốn kéo lên lại bị kéo trở xuống mấy lần. Lúc đó cô cháu họ Trần sợ đến nỗi lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi hồn bất phụ thể. Vào lúc tiến thối lưỡng nan, không có cách nào, liền nhớ đến việc ông chú ở Đài Đông thường dạy cô niệm A Di Đà Phật, khi gặp lúc tai nạn nguy cấp càng phải to tiếng niệm Phật. Cô cháu họ Trần liền chắp hai tay lại, cố sức to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Thành tâm thành ý niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ thân tâm cảm thấy an nhiên, tâm sợ hãi đã không còn nữa. Bỗng nhiên trên đường có một chiếc xe ba bánh chạy đến, người đánh xe đến trước mặt cô cháu họ Trần, liền thắng xe lại, không nói một tiếng nào, liền kéo chiếc xe đạp lên, lại mời cô cháu họ Trần lên xe ba bánh, đưa xe đạp đặt lên trên xe ba bánh, người đánh xe liền chở cả cô cháu họ Trần lẫn xe đạp về đến cổng nhà của cô.

    Cô cháu họ Trần trong lòng rất cảm tạ người đánh xe trẻ tuổi mạnh khỏe nầy, sau khi xuống xe, muốn lấy tiền nhiều một chút cho anh ta, nhưng lúc quay đầu lại thì không biết đã đi đâu mất rồi! Lúc đó đã là nửa đêm, cũng không biết tìm ở đâu. Qua ngày hôm sau, sáng sớm cô vẫn cứ nhớ cái ân của người đánh xe ba bánh, muốn đưa tiền cho anh ta, liền đến bãi xe ba bánh tìm trong mấy người phu xe, hỏi tới hỏi lui cả ngày, mọi người đều nói tối hôm qua không có ai chở cả người lẫn xe ở đó. Sau đó cô liền nghĩ lại sự cảm ứng lúc đang nguy cấp cố sức niệm A Di Đà Phật mới có sự hóa hiện xe ba bánh đến cứu mình. Cô ta lại nhớ đến tượng Phật của ông chú đưa cho ở bến xe Đài Đông, liền về nhà lục tìm xem, chỉ thấy tướng hảo trang nghiệm của Phật A Di Đà rất giống với phước tướng của anh phu xe ba bánh. Lập tức treo lên, rất là cung kính mua về hương hoa quả phẩm, đèn cầy để cúng dường lễ bái. Lại nhớ đến tinh thần từ bi của ông chú, đích thật là ân sâu như biển, liền từ Hoa Liên đi về Đài Đông đến chú Trần Phi Lâm nói ra việc cảm ứng này. Câu chuyện trên đây là do chính miệng Trần cư sĩ nói với tôi.

  22. 22. BỤNG ĐAU KHÓ CHỊU, BÀ NGOẠI DỰA VÀO

    “Có bạn từ xa đến, không phải cũng là điều vui vẻ sao?”. Câu nói này đích thật rất đúng. Mồng 5 tháng này, cư sĩ Trần Phi Lâm đột nhiên đến liên xã ở Đài Trung, phước tướng trang nghiêm hơn trước, khiến tôi mới gặp nhận không ra, tôi còn hỏi anh ta tên họ là gì? Anh ta nói “Trần Phi Lâm”, tôi liền vui mừng ra mặt nói với anh ta: “Tháng trước tôi viết chuyện cảm ứng độc đáo của quý phu nhân (vợ anh) và cháu gái của anh trên tờ nguyệt san Cây Bồ Đề, nhưng quên mất tên của hai người, thật là có lỗi quá!”. Cư sĩ Phi Lâm liền nói: “Đứa cháu tôi tên là Trần Khánh Huy, nhà tôi (vợ tôi) họ Đường tên là Cảnh Hòa, tôi lần này đã được nghỉ hưu ở hãng đường, hãng thưởng cho tôi một chuyến du lịch miền Tây, hôm nay nhân tiện đến thăm bà”. Bấm tay tính ra đã tám năm, có lẽ là do đồng đạo đồng chí, chỉ chuyên nói chuyện về đạo, anh ta từ khi may mắn gặp được Phật pháp không thể nghĩ bàn, lại được nhiều việc cảm ứng không thể nghĩ bàn, anh ta lại nói ra mấy việc cảm ứng nữa, nay kể ra một trong mấy chuyện ấy để độc giả thưởng thức.

    Cư sĩ Trần Phi Lâm nguyên quán là người Khê Hồ ở Chương Hóa. Vào thời Nhật chiếm cứ, sớm đã vượt trùng dương, đi đến địa phương sông Tùng Hoa, nước Cáp Nhĩ Tân ở Đông Bắc, làm việc ở cục Bưu Chính, vào năm hai mươi tám tuổi kết hôn với người con gái ở vùng đó tên là Đường Cảnh Hòa, năm sau sanh ra đứa con gái đặt tên là Nguyệt Hương, bà ngoại và cả nhà rất là thương yêu. Nguyệt Hương có thể nói là một đứa con may mắn, vừa mới sanh, đúng vào lúc kháng chiến thắng lợi, Đài Loan được thu hồi trở lại, trả về cho bờ cõi của tổ quốc, cư sĩ Phi Lâm liền dắt vợ con trở về cố hương, làm việc ở hãng đường.

    Vào hồi năm năm trước đây, có một hôm bà Trần bỗng nhiên đau bụng dữ dội, Trần cư sĩ nói: từ hồi kết hôn đến nay chưa từng thấy qua cô ta đau đớn như thế, liền mời về mấy vị Đông y Tây y chích thuốc, bổ thuốc, dùng các cách trị liệu đều không thấy hiệu quả! Lúc cả nhà đang bó tay, bà Trần bỗng nhiên từ trên giường bệnh bò dậy dường như chẳng có bệnh gì hết, ngồi trên ghế dựa nói chuyện, bà ta dùng quốc ngữ khẩu âm miền Đông Bắc nói: “Mau mau đi kêu cháu Nguyệt Hương lại đây, tao muốn thăm nó, do vì cách nhau đã mười tám năm rồi, tao rất nhớ nó, mau mau đi kêu nó đi!”. Lúc đó Nguyệt Hương đã lấy chồng, cũng may là ở gần, vừa kêu liền đến, đi đến trước mặt mẹ liền kêu: “Má à! Má kêu con lại có việc gì vậy?”. Mẹ của Nguyệt Hương liền nói: “Tao không phải là má mày, tao là bà ngoại mày, mười tám năm không gặp mày rồi, nên rất muốn xem mày ra sao”. Nguyệt Hương liền hỏi: “Bà ngoại, bà ăn cơm rồi chưa?”. “Tao ăn rồi”. Nguyệt Hương hỏi tiếp: “Bà ngoại! Con cúng cho bà ngoại một bài vị được không?”. Bà Trần lại đáp: “Không cần! Không cần!”. Cư sĩ Trần Phi Lâm thấy tình trạng đó, biết là mẹ vợ dựa, liền dùng Phật pháp khai thị cho bà rằng: “Má à! Má đã đọa lạc vào quỷ đạo, chắc chắn phải là khổ sở lắm, má nhất định phải niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây phương Cực lạc thế giới, mới có thể lìa khổ được vui, con chỉ cho má niệm, má phải niệm theo con. Bèn chắp tay lại niệm “Nam mô A Di Đà Phật”

    Trần cư sĩ nói, anh ta lúc đó chắp tay dùng tâm chí thành niệm, niệm chưa được hai mươi câu vạn đức hồng danh Thánh hiệu A Di Đà Phật, bà Trần bèn tỉnh táo trở lại, sức khỏe cũng được an nhiên, vẫn dùng tiếng Đài Loan như trước giờ, nói chuyện hỏi mọi người: “Mấy người đông như thế này xúm lại đây làm cái gì vậy?”. Trần cư sĩ liền hỏi bà ta: “Vừa rồi má của em đến nói cái gì em có biết không?”. Bà Trần nói không biết một chút gì hết. Trần cư sĩ hỏi tiếp: “Em vừa rồi bụng đau dữ dội như thế, bây giờ thế nào rồi?”. Bà Trần nói: “Em đâu có đau bụng đâu!”.

    Nghe nói từ ngày hôm đó đến giờ bà Trần và cả nhà đều bình an vô sự, hưởng được sự an lạc tự nhiên của một gia đình Phật tử thuần thành.

  23. 23. NIỆM PHẬT: NƯỚC RÚT, NGƯỜI VÀ VẬT ĐỀU BÌNH AN

    Có một tín đồ của cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong tên Đoạn Tỷ, bà ta ở làng quê Vạn Đẩu Lục Tử. Có một hôm bà ta đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, bà ta nói với tôi: “Bà thật là công đức vô lượng, tôi có một người bà con có đứa con dâu, vì chồng nhập ngũ đi lính, ở nhà không giữ đạo đàn bà, về sau bị bắt giam trong ngục sáu tháng, hết hạn tù, sau khi ra ngục, mang về tượng Phật Tây phương Tam Thánh, thời khóa sớm tối niệm Phật, lạy Phật, đối đãi với bố mẹ chồng, chồng, con cái so với hồi trước như là hai người, trở thành một người vợ hiền, một người mẹ tốt, hiếu thuận với bố mẹ chồng, hơn nữa còn biết khuyên người trong nhà niệm Phật và nói một chút chuyện ngắn cho mọi người nghe. Người ta hỏi cô ta: “Cô hồi trước không tin Phật, hiện nay tại sao có thể tin Phật và tin sâu thành khẩn như thế?”. Cô ta nói là ở trong ngục có một vị sư tỷ ở liên xã, mỗi chủ nhật đều đến giảng Phật pháp, dạy người niệm A Di Đà Phật, sửa ác làm lành, nghe rất có đạo lý, đồng thời tặng cho kinh Phật, tượng Phật, chuỗi v.v… khiến cho người sau khi về nhà an phận giữ mình, sống hạnh phúc. Bà Đoạn Tỷ lại nói: “Tôi nghĩ vị sư tỷ ở Liên xã đến nhà giam nữ giảng Phật pháp đó nhất định là bà. Cả nhà người bà con đó của tôi đều rất cảm tạ bà, kêu tôi đại diện cho họ đến nói lời cảm ơn bà”. Tôi nói: “Đây là căn lành của cô ta, nhân duyên Phật pháp đã đến, đối với tôi đâu có can hệ gì”.

    Những lời trên đây là bà Đoạn Tỷ nói với tôi trong mùa Hạ tháng 6 năm Dân quốc thứ 48. Đến sau khi nạn lụt bát thất (mùng 7 tháng 8), bà Đoạn Tỷ lại đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong nghe kinh, lại một lần nữa nói với tôi: “Sư tỷ! Những việc tôi đã nói hồi trước, việc người bà con của tôi có con dâu, sư tỷ dạy cho cô ta niệm Phật, trong lần nạn lụt bát thất này, được sự cảm ứng rất lớn”. Nguyên là nhà cô ta ở ba gian nhà tranh ở dưới cầu phía cửa Nam nuôi mấy trăm con vịt mái làm phương kế sinh sống, con dâu của bà ta từ sau khi ra ngục, do vì thường sống bên con kênh này nên cuộc sống không thể phát triển, liền tính kế mua mười tám con heo nhỏ về nuôi, đợi đến lớn bán đi thì có thể mua đất cất nhà ở nơi khác làm ăn, cô ta lợi dụng khoảng đất trống, trồng một ít khoai lang… làm thức ăn để nuôi heo. Suốt ngày bận rộn, đến cái hôm lụt bát thất đó, cô ta nhìn thấy nước trong con kênh dâng lên, liền lấy một cây thang bò lên nóc nhà, sau đó cùng với chồng đi lùa mười tám con heo lại, rồi cũng từng con, từng con lùa lên thang lên trên nóc nhà, cuối cùng tự mình cũng lên trên nóc nhà, nhìn thấy thế nước trong con kênh lên quá mạnh, cô ta vẫn bình tĩnh kêu cả nhà chắp tay đồng niệm “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”, niệm được mười mấy phút, liền đổi niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm một lúc lại niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm đến sau khi nước trong con kênh rút, người và vật đều bình an vô sự từ trên nóc nhà xuống. Bà Đoạn Tỷ lại nói tiếp: “Sư tỷ nghĩ xem đây có phải là Phật, Bồ Tát gia bị không?”.

    Tôi thật nghĩ không ra việc cảm ứng của Phật, Bồ Tát này! Thật là ít có! Do vì một vùng trên hai bờ của cây cầu ở cửa Nam này bị nước lụt cuốn mất hơn một trăm căn nhà mặc dù là nhà tường đất, nhưng cũng có rất nhiều ngôi nhà lớn xây cất kiên cố, cũng đều bị nước cuốn đi, chết rất nhiều người, tại sao căn nhà tranh cũ nát bên bờ khe dưới cầu lại không bị nước cuốn đi? Trên nóc nhà chẳng những chịu đựng mấy người cả nhà, lại còn có cả mười tám con heo to nữa, rốt cuộc người và vật đều an nhiên vô sự! Điều khiến tôi càng nghĩ càng lấy làm kỳ quái là heo mà cũng biết leo thang, thật là mầu nhiệm vô cùng không thể nghĩ lường!

    Khi đến ngày chủ nhật, tôi lại đến nhà giam nữ giảng pháp, tôi liền đem chuyện chí thành niệm Phật Bồ Tát được cảm ứng, giải cứu được cái nguy khổ vì nước lụt, được tiêu tai khỏi nạn này giảng cho các nữ tù nghe, trong đó có một người đứng dậy nói: “Cô ấy chính là cô số mười sáu ở đây với chúng tôi, cô ta cũng từng nói có bố mẹ chồng nuôi vịt dưới cầu cửa Nam”. Cô này lại nói: “Sau khi cô ta ra ngục bèn muốn sửa lỗi làm mới lại, cố gắng làm người tốt, tạm thời nuôi mấy con heo, sau này sẽ đổi nghề”. Mời các vị thử nghĩ xem, Phật, Bồ Tát thật là từ bi, bình đẳng, bất cứ người nào chỉ cần chịu chí thành xưng niệm, liền được lợi ích rất lớn.

  24. 24. XE LẬT, ĐƯỢC BÌNH AN VÔ SỰ

    Lại nói tiếp có một vị lão sư tỷ cũng ở Vạn Đẩu Lục tên là Hồng Liên Di, bà ta có một đứa cháu gái tên là Hoàng Mẫn, năm nay mười tám tuổi. Cô ta từ nhỏ chịu sự hun đúc của bà ngoại, trong thức thứ tám đã trồng được hạt giống Phật. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở trường Quốc Dân năm mười ba tuổi, lúc muốn thi vào trung học, tự cô ta đã cầu Phật Bồ Tát gia hộ có thể thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn, cô ta đã phát nguyện trọn đời niệm A Di Đà Phật và ăn ngọ, do vì trường trung học Thảo Đồn gần nhà, cho nên cô ta mong muốn thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn. Thật là Phật, Bồ Tát không phụ người có tâm, cô Hoàng Mẫn này cuối cùng đã đạt được hy vọng của cô ta. Sau ba năm cô tốt nghiệp, năm mười sáu tuổi cô đến làm việc ở một y viện tổng hợp tại Đài Trung, làm y tá. Cô ta làm việc rất cẩn thận, cố gắng học tập, đối với người bệnh rất thân thiết, mặc dù bận rộn với công việc suốt cả ngày, hai thời khóa sớm tối cũng niệm Phật không gián đoạn, do vì cô mang theo tượng Phật nhỏ có lộng khung kiếng theo mình, hai thời khóa sớm tối thỉnh ra lễ bái, niệm Phật xong rồi cất vào lại.

    Vào mùa xuân năm nay, bác sĩ trưởng phái cô đưa người bệnh đến Thảo Đồn, ngồi một chiếc xe taxi trở về, đến nửa đường vùng phụ cận của Thảo Hồ, chiếc xe này bỗng nhiên bị hư máy, lộn lật nhào, lật vào trong đám lau bên đường, bốn bánh xe chổng lên trời. Lúc đó có một vị sư tỷ tên Ngân Tiếu đứng ngay cổng nhà nhìn rất rõ ràng, buột miệng kêu lên: “A Di Đà Phật! Tội nghiệp người trong xe tiêu hết rồi!”. Trong khoảnh khắc đó, lại thấy cửa xe mở ra, một cô gái trẻ, tay dắùt một ông cụ chun ra, tài xế cũng chun ra, ba người chẳng những bình an vô sự, mà ngay cả da cũng không có trầy sướt chút nào, nhưng kiếng của xe thì vỡ nát hết. Sư tỷ Ngân Tiếu nói cô nghĩ không ra ba người này sao mà may mắn như thế, không có bị thương một chút nào hết, họ đổi xe khác đi về Đài Trung. Ngày hôm sau được nghỉ cô Hoàng liền về nhà nói với bà ngoại rằng: “Bà ngoại! Đức Phật A Di Đà thật là linh cảm, đã phò hộ cho con”. Liền đem chuyện kinh sợ xe lật vào đám lau hôm qua nói cho bà ngoại nghe, cô ta còn nói “Con mỗi lần lên xe, trong tâm đều nhứt tâm niệm A Di Đà Phật, cho nên hôm qua ngồi trong xe cũng đang niệm Phật, sau khi xe lật gọng, con đỡ ông bác già ngồi kế bên dẫn ra, cùng về Đài Trung, đến Đài Trung xuống xe con liền mua trái cây về cúng dường lễ bái Phật A Di Đà, cảm tạ ân đức cứu mạng con để bày tỏ chút lòng thành kính”.

    Chuyện trên đây là vào mùng 1 tháng 5 tôi đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong giảng kinh, lão sư tỷ Hồng Liên Di nói với tôi, lúc đó sư tỷ Ngân Tiếu cũng có ở đó.

  25. 25. XE BA BÁNH RỚT XUỐNG KHE, MỘT PHEN THẤT KINH HỒN VÍA

    Một niệm chân thành, nhờ Phật gia bị, anh phu xa Trần Phong Nam nhà ở đường Trung Sơn ở Vụ Phong, đêm khuya ngày rằm tháng 6 năm Dân quốc thứ 49, chở vợ con đầy xe trên đường từ Đài Trung về Vụ Phong xảy ra tai nạn xe. Muốn rõ như thế nào, xin mời xem chuyện dưới đây:

    Mỗi năm vào ngày rằm tháng 6 là ngày lễ đản sinh của đức Thành hoàng ở Đài Trung, ngày này, ngoài những đệ tử nhà Phật chánh tín ra, phần lớn người ta đều đại khai sát giới, mời mọc bạn bè thân hữu đến ăn tiệc, nhất là những bà con bạn bè ở ngoại ô hoặc ngoài thành phố, đều không hẹn mà đến, lại còn mỗi người đều mang cái tâm lý và tục lệ “không say không về”; đương nhiên anh Trần Phong Nam cũng thế, không ngoại lệ, lúc mặt trời sắp lặn, liền lấy xe ba bánh của mình chở người vợ yêu của mình tên là Ái (lúc đó đang mang thai được tám tháng) và hai đứa con trai, lòng tràn đầy vui sướng đi đến Đài Trung dự tiệc. Lúc sắp nửa đêm mới cáo biệt chủ nhân ra về. Trong đêm trăng thanh gió mát đạp xe từ từ về nhà.

    Lúc gần đến Thảo Hồ, cô Ái (vợ anh ta) liền nghĩ: nghe nói vùng phụ cận Thảo Hồ ban đêm thường xảy ra tai nạn xe và những việc không tốt, mình nên nhanh chóng niệm Phật, cầu Phật, Bồ Tát gia hộ mới đúng. Cô ta liền ở trong tâm một mạch niệm thầm mãi “Nam mô A Di Đà Phật”.

    Xe đến trên cầu, bỗng nhiên không biết tại sao cả người lẫn xe rơi xuống đáy khe sâu đến mấy trượng! Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc này cô Ái lớn tiếng hét to lên: “A Di Đà Phật! Độ chúng con vãng sanh Tây phương”. Thật là không thể nghĩ bàn, chiếc xe ba bánh không nghiêng không ngã, rơi xuống đáy khe một cách ngay ngắn, chồng vợ con cái bốn người cũng vẫn ngồi trên xe y nguyên như trước, chẳng những không có bị trọng thương mà ngay cả da cũng không có trầy sướt gì cả, chỉ là bị một phen thất kinh hồn vía mà thôi, sau đó còn phải nhờ mấy người bạn đi đường kéo giúp chiếc xe lên, về đến nhà đã hơn 2 giờ rồi.

    Qua ngày sau, anh Trần lo đứa con trong bụng của cô Ái vợ anh không biết có sao không, nên kêu cô ta đi đến khoa phụ sản khám, nhưng cô Ái nói “Em thấy không có chút gì khác lạ hết, không cần khám đâu”. Những người hàng xóm sau khi hay tin lăng xăng lại hỏi thăm anh Trần tình hình tai nạn xe xảy ra lúc đó, anh ta nói: “Tôi đến trên cầu thì rất cẩn thận điều khiển xe, nhưng phía sau làm như có người bẻ quẹo xe tôi đẩy xuống đáy khe. Lúc đó tôi cũng cố gắng dùng sức muốn quẹo xe trở lại nhưng lại không có cách, may nhờ vợ tôi cố gắng niệm Phật, nếu không thì làm gì có được dễ dàng như thế, có thể bình an vô sự được?”.

    Lúc cô Ái bồng đứa con trai mập mạp trắng trẻo của cô ta đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong lễ Phật thì cô Trần Giang Đào dẫn cả nhà của anh lại giới thiệu với tôi (Khán Trị), nói ra sự thật cảm ứng cảm động lòng người này.

    Lợi ích của niệm Phật, chẳng những hiện đời có thể được tiêu tai khỏi nạn, chỉ cần tín tâm kiên cố, niệm Phật không có trễ nãi, về sau sẽ được vượt ra tam giới, vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, lợi ích càng lớn, không gì so sánh đặng. Tôi lúc đó chúc phúc cho cả nhà anh Trần đạo nghiệp tinh tấn, hạnh phúc mãi mãi và niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều hơn nữa.

Đã đóng bình luận.