Khi tôi còn làm học sinh cầu học với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi đã đọc “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao” do Pháp sư Từ Vân Quán Đảnh làm vào thời Càn Long tiền Thanh. Ở phía sau của “Sớ Sao”, Ngài nêu ra niệm Phật có một trăm loại quả báo khác nhau, quả báo thứ nhất là đọa A Tỳ Địa Ngục, quả báo sau cùng là thượng phẩm thượng sanh. Tôi cảm thấy vô cùng kinh ngạc, một ngày từ sớm đến tối niệm A Di Đà Phật, vì sao niệm đi đến A Tỳ Địa Ngục? Tôi đặc biệt thỉnh giáo với lão sư Lý, tôi có nghi vấn đối với việc này: “Niệm Phật có không tốt cũng không đến nỗi đọa A Tỳ Địa Ngục”. Lão sư Lý nghe tôi nêu ra vấn đề này, thầy nói: “Nghi vấn này là vấn đề lớn, tôi không nói với một mình ông. Khi giảng Kinh sẽ nêu ra giảng giải cùng mọi người”.
Vì sao niệm Phật lại đi đến A Tỳ Địa Ngục? Ý niệm tự tư tự lợi quá nặng, tuy là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, nhưng mỗi niệm không buông xả tự tư tự lợi, ngay trong cuộc sống thường ngày vẫn là tranh danh đoạt lợi với người. Thì ra là như vậy! Tuy là miệng niệm Di Đà, nhưng danh vọng lợi dưỡng, tham-sân-si-mạn, phải quấy nhân ngã trong lòng không có thứ nào buông xả, vậy đương nhiên là đọa A Tỳ Địa Ngục rồi, không có lời gì để nói.
Chúng ta từ ngay chỗ này có được sự khải thị rất lớn, sau đó mới biết được niệm Phật không phải chỉ có miệng niệm, chỉ có miệng niệm thì không hữu dụng. Chẳng trách người xưa thường nói: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công”. Niệm Phật phải niệm thế nào? Nghĩ tưởng xem ý nghĩa của “niệm” là gì? Văn tự Trung Quốc chúng ta là phù hiệu của trí tuệ, chữ “niệm” bên trên là chữ “kim”, phía dưới là chữ “tâm”. Thì ra ý nghĩa của chữ “niệm” là tâm của hiện tại, trên tâm hiện tại có Phật thì gọi là niệm Phật. Không nhất định là miệng niệm, mà trong tâm phải thật có Phật. Nếu trong tâm không có Phật, chỉ trên miệng có Phật thì không hữu dụng, nhất định trong tâm phải có Phật. Trong tâm có A Di Đà Phật rồi, ý nghĩa của A Di Đà Phật là gì? Nếu như chỉ niệm một câu Phật hiệu này mà không hiểu ý nghĩa thì không thể tương ưng.
Cũng có lẽ các vị hỏi, có rất nhiều người không có văn hóa, người không có nhận qua giáo dục, cũng không có nghe Kinh, Phật lý, thế gian lý họ đều không hiểu thứ gì, thế nhưng niệm Phật không được bao lâu thì họ chân thật vãng sanh, Phật tiếp dẫn họ đi rồi, việc này là thế nào vậy? Tỉ mỉ đi quán sát họ, thì ra ý nghĩa hàm chứa trong câu “A Di Đà Phật”, họ thảy đều làm được rồi, cho nên họ có thể vãng sanh. Họ không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, không có tự tư tự lợi, không có phải quấy nhân ngã, không có tham-sân-si-mạn, đối nhân xử thế tiếp vật là một mảng từ bi. Việc này tuy là họ chưa học qua, thế nhưng họ khởi tâm động niệm liền tương ưng với Phật.
Nếu bạn không tin tưởng, Singapore có một vị cư sĩ Hứa Triết, bà không hề nghe qua Phật pháp, cũng không có đi học, đến bốn năm mươi tuổi bà mới ra sức dụng công, đến khắp nơi thỉnh giáo với người, như vậy mới có thể đọc sách, chưa hề tiếp xúc qua Phật giáo. Cả đời bà, khởi tâm động niệm, đời sống, hành vi nhà Phật đã nói, bà thảy đều làm được. Hơn một năm gần đây, bà mới xem đến sách Phật. Bà xem được rất hoan hỉ, bà vẫn ngày ngày đang đọc.Tôi đến thăm hỏi bà.Bà hỏi tôi:“Con có thể làm đệ tử Phật hay không?”.Tôi nói: “Bà là đệ tử Phật tiêu chuẩn”. Năm giới mười thiện, nếu cho điểm số thì bà đáng được điểm mười, không có chút kém khuyết nào. Cho nên, bà phát tâm xin đến quy y, tôi không chỉ đem chứng nhận quy y đưa cho bà, ngay chứng nhận ngũ giới cũng đưa cho bà, vì bà làm viên mãn rồi. Tuy trong miệng bà không có niệm A Di Đà Phật, thế nhưng trong tâm của bà toàn là A Di Đà Phật. Bà một đời ăn trường chay, cả đời không hề tức giận, cả đời không hề oán giận một người nào. Bạn xem, bà không phải Bồ Tát thì là ai?
Khuyết điểm lớn nhất của chúng ta ngày nay là ngày ngày xem thấy lỗi lầm của người khác, ngày ngày thấy khuyết điểm của người, người khác không có cũng đem họ nghĩ ra thành có. Oan uổng cho người! Đây là chính mình đang tạo nghiệp. Người như vậy niệm Phật làm sao có thể vãng sanh?Đương nhiên là không thể vãng sanh. Cho nên lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói: “Đáng đọa lạc như thế nào vẫn phải đọa lạc như thế đó, đáng luân hồi như thế nào thì vẫn phải luân hồi như thế đó”. Cho nên, niệm Phật có đọa địa ngục, có đọa ngạ quỷ, có đọa súc sanh.Chúng ta phải hiểu được những đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật, phải nên tu học thế nào.Nghiệp chướng của chính chúng ta, nghiệp chướng lớn nhất như vừa rồi mới nói là tự tư tự lợi.Trong tự tư tự lợi, nghiêm trọng nhất là tâm tham.Từ trong tâm tham, nếu tham được rồi thì liền bỏn xẻn, còn tham không được thì liền sanh sân hận, đố kỵ.Do bởi đố kỵ, sân hận nên tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp.
Trích Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh giảng giải (tập 181)
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Posted by Đường Về Cực Lạc on Tháng Mười 15, 2015 at 12:41 sáng
Vì Sao Người Niệm Phật Không Được Vãng Sanh?
Có những kẻ cả đời niệm Phật nhưng chẳng thể vãng sanh, nguyên nhân nói đại lược gồm 4 điều:
1. Một là vì niệm Phật chẳng tinh thành, niệm thứ nhất vừa mới tinh thuần, niệm thứ hai bèn xen tạp. Lịch đại tổ sư đại đức đều là bậc thông Tông, thông Giáo, sau khi hiểu rõ Tịnh Độ bèn buông bỏ hết những thứ khác, chuyên tu Tịnh Độ.
Trong những trước tác của đại sư Liên Trì, tinh hoa là bộ Di Đà Sớ Sao; trước tác tối trọng yếu của đại sư Ngẫu Ích là Di Đà Yếu Giải, Ấn Quang đại sư vào tuổi già chỉ dùng một bộ kinh A Di Đà, một câu Phật hiệu, ngoài ra chẳng còn có gì khác nữa.
2. Hai là vì sanh nghi, chẳng dốc lòng tin.
Tuy tu Tịnh Độ, cũng chịu niệm Phật, nhưng chẳng thể hoàn toàn tin mình có thể vãng sanh. Chỉ cần có một điểm nghi tình, lúc lâm chung dù có phước báo, thân không bệnh khổ, trí não sáng suốt, nhưng chỉ có thể sanh về biên địa. Kẻ phước báo kém hơn, thần trí chẳng sáng suốt, nghi chướng nổi lên, liền chẳng được vãng sanh. Nếu muốn phá trừ những nghi chướng ấy, hãy nên thâm nhập, nghiên cứu kinh giáo và tìm đọc những chuyện vãng sanh thật sự.
3. Thứ ba là do chẳng có nguyện vãng sanh.
Chẳng nguyện vãng sanh là mâu thuẫn với niệm Phật, dùng việc niệm Phật để tu phước, tương lai làm một con quỷ giàu có, có kẻ còn mong sanh lên trời, hy vọng tương lai hưởng phước trời, cầu phước báo trong cõi trời, cõi người.
4. Điều thứ tư là vì chẳng thể đoạn tham ái.
Tham cầu các thứ hưởng thọ trong tam giới lục đạo, phàm phu tham ngũ dục lục trần thế gian, người cõi trời tham phước báo thanh tịnh cõi trời, người Sắc Giới, Vô Sắc Giới tham hưởng thọ Thiền Định. Có tham ắt thành chướng ngại, chẳng thể vãng sanh.
Người tu Tịnh Độ chân chánh, ma chẳng dám đến nhiễu loạn. Thứ nhất là do niệm lực, tức là như kinh này nói: “Nhớ Phật, niệm Phật”. Thứ hai là bổn nguyện có Phật tánh lực, điều được niệm là tự tánh Phật, thanh tịnh bình đẳng đại từ bi là Phật. Thứ ba là được bổn nguyện của chư Phật gia trì. Với sức bổn nguyện oai thần gia trì của mười phương ba đời hết thảy Như Lai, ma dù có sức cũng chẳng thể đến nhiễu loạn.
Lão pháp sư Tịnh Không
Posted by Đường Về Cực Lạc on Tháng Mười 15, 2015 at 12:42 sáng
Dựa trên lý mà nói pháp môn Tịnh Độ là nhờ Phật lực của Phật A Di Đà cứu giúp, thì bảo đảm vãng sanh một trăm phần trăm, nhưng vì sao thấy người niệm Phật hiện nay rất nhiều, nhưng người chân thật có thể vãng sanh thì lại rất là ít vậy?
Đây là một vấn đề rất quan trọng , mỗi một người niệm Phật phải nghiêm túc đối với việc này, nhất định không được xem thường!
Ngày nay chúng ta niệm Phật không cách gì vãng sanh, then chốt là ở “ không có Tín Nguyện, hoài nghi bất an, sợ chết, vốn không cầu vãng sanh”. Người niệm Phật ngày nay niệm Phật, chỉ là cầu bảo hộ, cầu tiền của, cầu công danh, cầu bình an, cầu thuận lợi, cầu tiêu tai, cầu khỏi nạn, cầu trị bệnh, cầu sống lâu, cầu tất cả lợi ích của thế gian, nhưng tuyệt đối lại không cầu vãng sanh Tây Phương!
Pháp môn niệm Phật tệ hại đến nước này như ngày nay, thì mỗi một đồng tu niệm Phật chúng ta phải nên thống thiết mà phản tỉnh, hổ thẹn mà sám hối. Chúng ta phụ rẫy sự chờ đợi nhớ mong của Phật A Di Đà đã nhiều kiếp! Cũng đã phụ lòng Thích Ca Mâu Ni Phật khẩn thiết dặn dò hết lời khuyên bảo! Càng phụ lòng bi tâm kỳ vọng, khuyến tấn tán dương, chứng minh khen ngợi của mười phương tất cả chư Phật! Nghĩ đến chổ này, mỗi một người niệm Phật phải nên thống thiết mà rơi lệ, không chỗ dung thân!
Mỗi một vị dạy bảo người niệm Phật, cũng phải nên phản tỉnh: tại vì sao đem đại pháp Di Đà nương vào Phật lực, nhất định an tâm, tín nguyện niệm Phật, quyết định vãng sanh thành Phật, thì dạy thành dựa vào tự lực, hoài nghi bất an, không được nhất tâm, không cách gì vãng sanh ?
Mỗi một người học tập pháp môn niệm Phật cũng phải nên phản tỉnh: tại vì sao Tịnh Độ diệu pháp đầy đủ Tín Nguyện, nương vào Phật lực, quyết định vãng sanh, không sợ chết, thích được chết, muốn được đi sớm một chút, thì học thành hư tâm giả nguyện, hoài nghi tự ti, không dám gánh vác tiếp nhận, sợ chết, lo lắng phải chết, trong lòng không hề muốn được đi sớm một chút?
Ngay trong một ngàn người niệm Phật thì có hơn chín trăm chín mươi chín người giả niệm Phật , đây chính là chân tướng vì sao niệm Phật không thể vãng sanh. Thường ngày chúng ta niệm Phật, tâm miệng không đồng nhau, giả tín hư nguyện, trong tâm luôn quyến luyến vướng bận, tuyệt đối chẳng phải vì việc lớn sanh tử, mà chỉ là tất cả lợi ích thế gian; khi vừa đến cửa ải sanh tử, thì nhìn không thấu, buông bỏ không được, lo lắng đầu này, dính mắc đầu kia, nhưng tuyệt nhiên không cầu chết, tuyệt đối không hề cầu chết sớm một chút, để sớm ngày vãng sanh.
Cho nên, tuyệt đại đa số người niệm Phật đem của báo giá trị liên thành, chỉ để đổi thành một cục đường. Do đó niệm Phật chỉ thành phước báo trời người, tạo thành oan nghiệp cho đời thứ ba, mãi mãi ở trong luân hồi, chịu khổ không cùng.
Thiện Đạo Đại Sư Ngữ Lục
Cẩn Dịch : Vọng Tây Cư Sĩ
Posted by Đường Về Cực Lạc on Tháng Mười 15, 2015 at 12:43 sáng
Niệm Phật Vì Sao Không Thể Vãng Sanh Làm Phật?
Vì xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật. Không phải chư Phật Bồ Tát không giúp đỡ mà chính chúng ta bỏ lỡ cơ hội trước mắt. Do đó cần phản tỉnh, kiểm điểm ở mình, khi thật sự giác ngộ, đạo Bồ Tát sẽ thuận buồm xuôi gió, không còn chướng ngại. Tỉ mỉ quán xét, không chút ngạo mạn, hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng sinh đích thực là cha mẹ quá khứ của ta, xác xác thực thực là “chư Phật vị lai”. Đức Phật nhìn thấy đời quá khứ của con người, quá khứ còn có quá khứ, quá khứ vô cùng, vô lượng vô biên kiếp đến nay, cùng với chúng sinh có quan hệ quyến thuộc, đồng l quan hệ quyến thuộc thì làm sao có thể đối xử không tốt. Người thế gian thường hay tiếc của, nhìn thấy liền khởi tham sân si mạn, tạo tác nhiều ác nghiệp, phải chịu quả báo.
Chúng ta may mắn gặp được Phật pháp, gặp Đại thừa, được Phật giảng giải tường tận giúp giác ngộ. Sau khi giác ngộ, tâm chúng ta thay đổi rất lớn theo hướng tích cực. Dùng tâm chân thành hiếu thuận để cúng dường đại chúng, phước báu vô lượng như kinh đã nói: “được công đức lợi ích như bố thí trăm Hằng sa chư Phật”. Cơ duyên khó đến, hi hữu khó gặp, chân thật hiểu rồi, chân chính giác ngộ, tự nhiên sẽ toàn tâm toàn lực phụng hiến đại nghiệp này, cũng là cúng dường cha mẹ, cúng dường chư Phật.
Pháp Sư Tịnh Không
Cẩn Dịch : Vọng Tây Cư Sĩ
Biên Tập : PT Giác Minh Duyên
Giảng tại Tịnh tông học hội, Singapore, tháng 05- 1998
Posted by Đường Về Cực Lạc on Tháng Mười 15, 2015 at 12:44 sáng
Hai Lý Do Chính Khiến Người Niệm Phật Nhưng Không Thể Vãng Sanh
Người niệm Phật vì sao không được vãng sinh? Đây là vấn đề rất quan trọng. Người xưa nói, niệm Phật là pháp môn mà vạn người tu thì vạn người được vãng sinh. Nhưng vì sao ngày nay chúng ta thấy cả vạn người tu niệm Phật mà khó có được một hai người vãng sinh, nguyên do vì sao?. Có phải là người xưa nhìn sai, nói sai? Kỳ thật thì chư vị cổ đức không nói sai, cũng không nhìn sai. Người niệm phật cầu vãng sinh mà không được vãng sinh Tịnh độ, nguyên do ở tại bản thân mình. Nói một cách cụ thể thì nguyên do đó không ngoài hai điều sau:
Một là do trình độ nhận thức về tông Tịnh độ, về phương pháp niệm Phật và về cảnh giới Tây phương không được rõ ràng, chính xác. Thêm nữa là quá trình tu tập hành trì còn có tâm nghi ngờ, còn tạp niêm, còn gián đoạn, công phu tu tập chưa thuần nhất, chưa nổ lực tinh tấn.
Hai là, mặc dù đối với pháp môn Tịnh độ đã có nhận thức, đã có phương pháp và cũng hiểu biết về cảnh giới Tây phương rõ ràng, nhưng không thể buông bỏ một cách dứt khoát các duyên nợ của cuộc đời, vẫn còn có tâm tham luyến thế gian, cho nên đến giờ phút lâm chung sinh lòng luyến tiếc, làm trở ngại việc vãng sinh. Đây là điều rất đáng tiếc!
Có một cuốn sách đang lưu hành trong thế gian, mà bản cũ có tên gọi là: “Chuẩn bị cho cái chết”, sau này người ta viết lại cuốn này bằng văn bạch thoại với tên gọi mới là: “Những điều cần biết trước khi chết”(1), mọi người đều có thể tìm đọc. Cuốn sách này rất quan trọng, nó chỉ dạy cho người niệm Phật biết, trước lúc lâm chung, tất cả những người thân trong gia đình điều tốt nhất cần phải làm là tránh gây sự xúc động tình cảm, vì như vậy có thể làm cho người chết mất cơ hội vãng sinh, rất đáng tiếc!
Đó là chưa kể đến những chư?ng duyên khác. Chẳng hạn, không cần phải nói đời trước, ngay đời này, chúng ta cùng với chúng sanh đã gây cho nhau biết bao ân oán. Những ân oán oan trái này nó tiềm ẩn bên trong tâm thức, luôn luôn thúc đẩy sự báo thù, cho nên nơi nào cũng có ma chướng. Công phu tu tập của bản thân mình nếu không đủ định lực, không đủ niệm và định, thì lúc lâm chung những ân oán, những oan trái, hiềm hận ở trong tâm trở thành ma lực làm chướng ngại sự vãng sinh của ta.
Vì vậy, lúc bình thường chúng ta phải nổ lực tu tập, đến lúc lâm chung mới vượt qua được chướng ngại, đạt được mục đích vãng sinh Tịnh độ, tức cũng được gọi là giác ngộ. Cần phải nhận thức được thế giới Ta bà và sáu nẻo luân hồi là khổ đau, cho nên đặt quyết tâm không ở lại trong đó, quyết tâm giải thoát. Ph?i nhận thức việc niệm Phật cầu vãng sinh sang thế giới Tây phương cực lạc là quan trọng nhất, là phương pháp đạt được hạnh phúc tuyệt đối, là con đường đưa chúng ta thoát khỏi sinh tử luân hồi trong ba cõi, vĩnh viễn xa lìa khổ đau, thành tựu quả vị Phật. Phải tin rằng trong một đời này nhất định chúng ta sẽ được chứng đắc. Phải đem cái tâm tham đắm thế giới buông bỏ và làm cho cái tâm thanh tịnh của mình hiển lộ, trong tâm thanh tịnh không có bóng dáng của sự ô nhiễm.
Cái mà người đời ai cũng tham luyến là của cải vật chất, tiền bạc, công danh, giàu sang, địa vị, quyền lực; và ai cũng có tinh thần hưởng thụ; cho đến những tình cảm trong gia đình, tất cả đều là những ma chướng. Những thứ này không thể không từ bỏ, không thể không buông xả. Làm được như vậy thì cái mục đích mong muốn được vãng sinh Tịnh độ của chúng ta mới không bị trở ngại.
Trong cuốn “Niệm Phật luận”, phần cuối, pháp sư Đàm Hư có ghi lại rất nhiều trường hợp người niệm Phật được vãng sanh do chính mắt Ngài chứng kiến, chỉ kể ra những trường hợp đặc biệt, còn kèm theo lời khai thị của lão pháp sư trong Phật thất. Trong đó có hai vị đệ tử của pháp sư Đế Nhàn, một vị tham thiền, một vị niệm Phật; còn có lão pháp sư trú trì chùa Đầu Đà, trong chùa này còn có sự tích của một đôi gà trống niệm Phật được vãng sanh. Đó là những trường hợp vãng sanh thời cận đại, được tập hợp lại in chung trong một cuốn sách nhỏ để phổ biến xa gần.
Chúng ta quan sát kỹ càng những vị thiện tri thức này, vì sao họ được vãng sanh một cách tự tại an nhàn như vậy? Chẳng có gì khác, vì họ đã buông bỏ được tất cả mọi duyên ràng buộc của cuộc đời. Cho nên, không những họ biết trước được giờ chết, mà thân còn không mang bệnh tật, có người đứng mà vãng sanh, có người ngồi mà vãng sanh. Đó thật sự là đại sự nhân duyên hy hữu, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay. Điều này thì Đại Phạm Thiên, vua của ba cõi, tuyệt đối không thể so sánh được. Chúng ta phải nhận thức rõ điều này để phát tâm chân thật, lấy những bậc thiện tri thức ấy làm gương, nổ lực tu tập như họ. Họ có thể tu tập thành tựu, vì sao chúng ta không thể làm được? Nhất định phải tìm cho ra nguyên nhân nào đã khiến cho bản thân mình tu tập không thành tựu để kịp thời sửa đổi. Đồng thời phải học hỏi, xem xét nguyên nhân nào đã khiến người ta tu tập thành công. Chúng ta phải học tập, nghiên cứu cho tường tận. Như vậy mới hy vọng trong một kiếp này quyết định vãng sanh Tịnh độ. Thực hiện được lý tưởng này, trong Phật pháp gọi là thành tựu viên mãn “đại sự nhân duyên”.
Bản thân mình tu tập thành tựu thì sẽ cảm hoá được chúng sanh, bản thân mình thực hành thì người khác sẽ noi theo. Cho nên, thân giáo là hiện thân thuyết pháp, so với dạy bằng lời thì có hiệu quả hơn nhiều, có thể khiến kẻ thấy người nghe đều khởi tâm giác ngộ, phát đại nguyện cầu sanh Tịnh độ. Công đức này thật là vô lượng vô biên, phước huệ tự nhiên đều nằm trong đó.
Trích Tâm Không Vướng Bận
Nguyên tác: Tịnh Không Pháp sư
Việt dịch: Thích Nguyên Hùng