Vào thời đại xa xưa, tại nước A Thâu Sa của xứ Thiên Trúc (vì nước Thiên Trúc vào thời cổ có 16 nước lớn) có một người dòng Bà La Môn (không thấy nói tên họ), anh chàng này bẩm tánh chân thật, nhưng ngu si vô trí lại khổ một nổi là tâm ái nhiễm sắc dục nghiêm trọng, nên anh đối với vợ yêu thương quá mức, với tình chồng vợ không biết chán nhàm.
Trái lại vợ anh chẳng những là người hiền lành, mà lại thông minh lanh lợi. Cô này sanh trưởng trong một gia đình kính tin Tam Bảo, riêng cô là người chẳng những với ngôi Tam Bảo sùng kính đến mức tối đa, lại rất am tường Phật lý, về việc tu hành thì cô chuyên về Pháp môn Tịnh Độ, trường trai niệm Phật. Cô thuê thợ làm một chiếc trống thuần hoàng kim. Mỗi ngày Cô quy định hai thời khóa niệm Phật khuya và tối, vì trong lúc ban ngày phải bận việc gia đình, trong thời gian này cô niệm Phật cũng chỉ nhiếp tâm thầm niệm mà thôi. Mỗi khi niệm Phật thì cô gõ trống thế cho mõ, như trên đã nói, chồng của cô đã quá đần độn lại quá yêu vợ không rời, nên lúc cô vợ đang cúng đánh trống niệm Phật, mà anh nắm lôi tay cô bảo đi ngủ, cô ôn tồn đáp: “Không được anh ơi! Nếu anh muốn em đi ngủ thì mỗi tối anh phải cùng với em đánh trống niệm Phật cho xong mới được đi ngủ”. Anh vì thương vợ nên sẳn sàng ưng thuận, có những lúc đang niệm Phật anh ta thúc hối đi ngủ thì cô ấy vẫn từ hòa nói: “Chưa đủ anh ơi! Niệm thiếu mang tội chết!” Từ đây anh dòng Bà La Môn này cùng vợ niệm Phật không sót một đêm.
Trải qua thời gian ba năm, anh bị trọng bệnh rồi qua đời, nhưng vì tim vẫn nóng, nên không nhập liệm, trải qua năm ngày anh sống lại, bấy giờ anh đối với vợ khóc một cách thảm thiết dường như buồn tủi một việc gì? Cô Phật tử vợ anh hỏi lý do, anh nói: ”Em ơi! Giờ đây anh không có ý niệm muốn gần em nữa! Chỉ có tâm niệm lo tu là chăm niệm Phật để được về Tây Phương Cực Lạc mà thôi! Vì sau khi anh chết bị ngục tốt dẫn vào Hoạch Than địa ngục (địa ngục này hành phạt tội nhân bằng cách nấu trong vạc dầu sôi), lúc ấy anh thấy tất cả tội nhân đương bị nấu trong vạc trồi lên chìm xuống, dường như nấu đậu, lại có tội nhân la khóc thảm thiết, trườn qua vành chảo mà muốn chạy ra, bị Ngục tốt dùng gậy đánh đập trúng chảo đồng đang nấu nghe tiếng cảng cảng và nó lại bắt quăng vào chảo, lúc ấy anh vô cùng kinh hồn khiếp vía sợ hãi, bỗng nhớ lại khi cùng em đánh trống vàng niệm Phật, hai tay chắp lại niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” nên anh chí thành niệm “Nam mô A Di Đà Phật” thì chảo dầu sôi tức khắc biến thành một ao nước mát có hoa sen đầy trong ấy, bao nhiêu tội nhân đều ngồi trên hoa sen, và thấy họ vui mừng khôn xiết không còn la khóc nữa. Tất cả đều sanh về Tây phương Cực Lạc.
Ngục tốt tức khắc tâu với Diêm Vương, Ngài liền đến chỗ chảo dầu sôi đã biến thành ao sen, vui mừng vô hạn, và tức khắc truyền lịnh phóng thích anh về dương thế, lại dạy bảo anh sau khi về dương thế phải siêng niệm Phật, đừng gần vợ nữa. Vì thế, anh giờ đây 100% không muốn gần em. Anh cũng muốn nói cho em được rõ, Diêm Vương chẳng những vui vẻ truyền lệnh phóng thích anh về, mà Ngài còn nói:
Trên trời dưới đất, không ai sánh bằng Phật
Đức từ bi rộng lớn Ngài cứu khắp quần sanh
Có những chúng sanh đã tạo rất nhiều tội ác
Bị đọa vào địa ngục chịu nhiều cực hình khổ sở
Chỉ nghe một câu Thánh hiệu A Di Đà Phật
Khiến cho dầu sôi lửa dữ phút chốc tức thời biến tan
Tất cả tội nhân đều được vãng sanh
Ao nước trở thành thanh lương (mát mẻ)
Tây phương Cực Lạc đức từ bi ấy hết sức cao cả
Con không thể nào dùng lời mà diễn tả
Chỉ biết chí thành mang cả tánh mạng
Quay về nương tựa nơi đấng Lưỡng Túc Tôn.
Nam Mô A Di Đà Phật
Trích từ “Oai Đức Câu Niệm Phật”
HT Thích Trí Minh
Posted by Đường Về Cực Lạc on Tháng Chín 16, 2015 at 5:48 chiều
Người Niệm Phật Phải Dứt Tâm Ái Để Vãng Sanh
Chúng sanh sống trong cõi đời này là do tình ái dục nhiễm mà sanh. Lục thân quyến thuộc: cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cháu; những sợi dây tình cảm này luôn luôn cột chặt chúng sanh lại với nhau mà đền trả vay mượn. Do tình ái lục dục vay mượn từ nhiều đời nhiều kiếp liên tục nên khó bề mà vượt thoát. Càng yêu thương nhiều thì càng thù hận cao, tình cha (mẹ) con, tình vợ chồng, thương yêu thì bao bọc che chở lo lắng cho nhau, nhưng khi thù hận thì thanh toán giết hại lẫn nhau. Vì tâm yêu hận chưa dứt nên khi chết chúng sanh mang theo những thứ nghiệp lực tình cảm yêu hận ấy mà sanh qua đời khác gặp nhau để đòi trả thanh toán lẫn nhau, và, cứ như vậy mà quay cuồng trong ngút ngàn vô tận. Cảnh cha giết con, con giết gha, vợ giết chồng, chồng giết vợ thường xảy ra hằng ngày trên thế giới nhiễu nhương này mà ta trông thấy; mọi việc không có gì là tự nhiên để phát sanh, mà, những thứ vay trả thanh toán nhau như vậy là do nơi tình ái yêu hận đã kết tụ từ nhiều đời trong vòng oan nghiệp chưa giải.
Hận thù thì gặp nhau để đòi nợ, trả nợ nhau trong hận thù. Yêu thương thì gặp nhau để đòi trả trong yêu thương. Hận thù tạo nghiệp ác thì đọa lạc nơi ba đường ác. Yêu thương triều mến, hiếu thuận từ hòa lại gặp nhau để đền trả trong cõi trời, cõi người; tự thân cũng quay cuồng trong lục đạo luân hồi đau khổ do ái tình chưa dứt.
Người niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương mà tình không dứt thì cơ hội vãng sanh rất khó. Niệm Phật cần có tín, hạnh, nguyện: liên hữu có thể có tín tâm vững chắc, hạnh tu chuyên cần; nhưng, khó là ở nguyện lực, hãy cố gắng để vượt qua. Nguyện lực có hai phần: một là nguyện sanh về nước Cực Lạc gặp Phật A Di Đà, điều này người tu niệm Phật lòng ai không muốn; nhưng, phần hai là nguyện dứt bỏ mọi thứ ở thế giới Ta Bà không luyến tiếc mà ra đi, điều này mới là khó. Vì chúng sanh đã bao phen gắn bó nhau trong vòng sống chết yêu thương thù hận, tình nghĩa vợ chồng, yêu thương con cháu, cha mẹ, anh em..những thứ tình ái này là sợi dây vô hình sẽ cột chặt chúng sanh trở lại nơi thế giới Ta Bà. Trong lúc lâm chung, nếu nguyện chúng ta không tha thiết, nghĩa là lòng mong cầu xả bỏ thân ngũ uẩn giả tạm, và, vứt hết những thứ tình ái lẩm cẩm ở cõi Ta Bà để ra đi không dứt khoát; thì lúc ấy những thứ tình yêu thương vợ chồng, con cháu, và lòng dục nhiễm mong muốn sanh trở lại cõi dục giới này sẽ hiện ra mà dẫn chúng sanh đi vào. Vậy là cơ hội vãng sanh của ta sẽ bị trắc trở. Điều này cho ta thấy, nếu như niệm Phật chưa đạt được “niệm Phật tam muội”, thì cố gắng làm sao phải dứt được chữ tình trong giờ phút lâm chung. Giờ phút lâm chung mà liên hữu cắt đứt được sợi dây tình cảm trong gia đình, tâm chí hướng về Phật cảnh thì vãng sanh là điều chắc chắn. Hãy gắng sức tinh tấn mà niệm Phật hằng ngày, không nên giải đãi biếng nhác mà luống đi một đời người. Hãy cẩn trọng!
Thượng Tọa Thích Phước Nhơn
Posted by Đường Về Cực Lạc on Tháng Chín 16, 2015 at 5:50 chiều
Tu Là Cội Phúc Tình Là Dây Oan
Vì không rõ nghiệp quả mà một người con sắp sửa phải giết chết chính cha ruột của mình, một đứa cháu cưới phải người bà của mình từ tiền kiếp làm vợ mà không hay biết. May nhờ duyên lành từ một vị cao tăng nên mọi sự được dàn xếp ổn thỏa.
Câu chuyện xẩy ra ở một nhà giàu tại Trung Quốc ngày xưa. Truyền thống “cải gia vi tự” (biến nhà thành chùa) bắt nguồn từ đấy. Một gia đình rất giàu sửa soạn nhà cửa đón dâu. Phú ông đang bận rộn với việc đám cưới thì gia nhân vào báo, có một vị sơn tăng đến khất thực hóa duyên. Vốn là người mộ đạo, phú ông vội vàng ra nghênh tiếp, mời Sư vào nhà, thỉnh ngồi ở ghế thượng khách. Nhưng vị Sư chỉ chống tích trượng đứng cười ha hả. Lạ lùng trước cử chỉ nhà Sư, nhưng phú ông không dám nghĩ đấy là người cuồng. Bởi trông mọi dáng vẻ Ngài đều có tiên phong đạo cốt, phú ông quyết đấy không phải là người tầm thường giả bộ. Ngước nhìn đôi mắt sáng như sao của nhà Sư, phú ông bất giác rơi lệ quỳ mọp xuống:
– Bạch hòa thượng, đệ tử ngu dốt, nay có phước duyên được người chiếu cố, xin người từ bi dạy bảo!
– Hà hà. Chúng sinh mê muội, làm tội ác tày trời còn hí hửng đánh trống thổi kèn.
Trong khi nhà Sư nói vậy, thì từ nhà sau vọng lên tiếng lợn kêu thống thiết. Vị Sư tiếp:
– Con heo đó là cha ngươi ngày trước. Vì tham tiếc cái gia tài, ông đã tái sinh làm con heo sau chuồng nhà ngươi.
Phú ông đầm đìa nước mắt bạch:
– Bạch hòa thượng, quả đúng như vậy, cha con khi sắp chết cứ thao thức tiếc cái gia tài của cải một đời mồ hôi nước mắt này, và dặn đi dặn lại chúng con phải giữ gìn đừng hoang phí.
Nói rồi vội bảo gia nhân đình chỉ việc giết heo. Nhà sư lại nói tiếp:
– Còn đứa con gái nhà ngươi sắp cưới cho con ngươi là ai biết không?
– Bạch hòa thượng, đó là con gái nhà láng giềng của con. Hai trẻ có cảm tình với nhau từ nhỏ, nên khi chúng thành niên con cho chúng tác hợp thì có gì sai quấy.
– Hà hà. Mới bà bà cháu cháu đó, mà nay là vợ vợ chồng chồng. Than ôi chúng sanh có mắt như mù.
– Bạch hòa thượng, xin hòa thượng từ bi khai thị cho kẻ ngu muội. Con không được rõ thánh ý.
– Có gì là mờ mịt đâu, chỉ vì ngươi không thấy! Ðứa con gái kia là mẹ ngươi ngày trước. Do vì khi sắp chết, người lưu luyến đứa cháu nội không nỡ rời, nên thần thức đầu thai lại cõi đời để sống gần nó.
Phú ông nhẩm lại, thì quả nhiên cô gái thua cậu 4 tuổi, nghĩa là cô ra đời đúng lúc bà mẹ ông mất, lúc con trai ông lên bốn.
– Bạch hòa thượng quả như ngài nói, mẹ con khi mất đã cầm chặt lấy tay đứa cháu nội, bà rất yêu cháu vì nó là đứa cháu trai duy nhất. Nay sự tình đã vậy thì con không dám làm việc ác tày đình thế kia. Xin hòa thượng chứng minh cho con được thế phát xuất gia, biến nhà thành chùa.
Rạp trang hoàng cho tiệc cưới trong chốc lát được sửa lại thành đạo tràng. Phú ông cung thỉnh vị sư lên tòa thuyết pháp cho bá tánh đến dự và coi đám cưới. Nghe xong thời pháp, mọi người đều xin quy y tam bảo, từ bỏ sát sinh. Chú rể xin cha theo vị hòa thượng về núi tu hành, còn cô dâu nguyện trọn đời ở vậy phụng dưỡng cha mẹ cho đến khi hai thân khuất núi, rồi cô cũng xuất gia.
Chưa rõ tác giả
Posted by Đường Về Cực Lạc on Tháng Chín 16, 2015 at 5:53 chiều
Câu Chuyện Về Mê Đắm Sắc Của Tôn Giả Nan Đà Và Sự Thức Tỉnh
Khi Ðức Phật còn ở đời, em ruột cùng cha khác mẹ của Ngài là ông Nan Ðà, con người bảnh trai lịch thiệp phong lưu, tham ái đa tình. Nhờ lịch thiệp bảnh trai, lại là hoàng tử, nên Nan Ðà đã sớm giao du với mọi người trong hoàng thân quốc thích, dự không biết bao nhiêu cuộc yến tiệc rượu nồng, cung phi mỹ nữ trẻ đẹp, đờn địch hát xướng.
Lửa tình sớm đốt cháy nơi lòng, Nan Ðà đã sớm thành hôn với thiếu nữ trẻ đẹp tên Tôn Ðà Lợi. Từ đó Nan Ðà đắm đuối bên vợ suốt ngày đêm. Chàng cảm thấy dường như vẻ đẹp của hoa lá, cùng hương trời sắc nước của trần gian như đã tô điểm thêm vẻ đẹp cho vợ mình. Nan Ðà rất thích những buổi yến tiệc của hoàng tộc để chàng có dịp dắt vợ khoe giữa đám đông. Vui thích được nghe mọi người chúc tụng khen tặng vợ mình trẻ đẹp, đồng thời cũng không muốn vợ tiếp xúc giao thiệp với người khác.
Chàng thương yêu vợ đáo để không rời xa một bước, Lòng ham muốn dục tình trong người Nan Ðà như than hầm rực đỏ nung cháy trong lòng. Suốt ngày chỉ suy tính đến chuyện yêu đương ân ái giàu sang hưởng thụ cho thỏa tình. Nhưng lòng tham dục của kẻ không biết thiểu dục tri túc có bao giờ đủ đâu? Cho nên kẻ tham dục luôn luôn rơi vào hưởng thụ ích kỷ như người khát uống nước biển, càng uống càng cảm thấy khát!
Theo thời gian, tâm trí và năng lực của Nan Ðà chỉ biết cung phụng cho ái ân bạc tiền. Ðức Phật thương ông sẽ trôi lăn triền miên trong vũng bùn ngũ dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ) vô tình đem đốt rụi đời mình trong đống lửa tham vọng dục tình, để rồi chuốc lấy nghiệp ác kéo lôi với đôi bàn tay trắng khi tắt thở lìa đời. Mãnh lực yêu thương và niềm hy vọng sẽ được kế ngôi vị quốc vương đã làm cho Nan Ðà mù quáng không còn thấy được tia sáng chân lý cuộc đời.
Sự thành đạo giác ngộ của thái tử Tất Ðạt Ða; sự hoằng dương chánh pháp hóa độ chúng sanh của Ðức Phật Thích Ca; sự xuất gia theo Phật tu hành của Kiều Ðàm Di Mẫu, công chúa Da Du Ðà La, La Hầu La và năm mươi hoàng tử trong hoàng tộc, cùng dân chúng và hoàng thân quốc thích ai nấy lo tu đức cúng dường Tam Bảo, làm việc từ thiện bố thí, những sự kiện dồn dập này đã làm cho Nan Ðà suy nghĩ về cuộc đời, về kiếp sống của con người, về sự tu nhân tích đức. Nhưng sự suy nghĩ đó chỉ thoáng hiện qua trong đầu óc của Nan Ðà như đóm sao rơi giữa bầu trời dày đặc tăm tối!
Ðức Phật thương hại Nan Ðà vì danh lợi ái tình mà ngày ngày đốt thiêu tiêu phí oan uổng năng lực tâm trí, điều quý giá nhất của kiếp người là thì giờ, tâm trí và năng lực. Nhưng hoa quý đâu thường nở, trẻ đẹp đâu mãi còn, già bệnh chết không hẹn với người.
Sau những lúc ái ân, vào những lúc tàn canh yến tiệc, khi vợ chồng bất hòa, hoặc khi thân thể bệnh hoạn rã rời, lúc đó Nan Ðà cảm như tử thần bên cạnh.
Mỗi lần đến tinh xá Kỳ Hoàn thăm Phật, được nghe Phật thuyết về lý vô thường, tứ đế, nhân quả, từ bi, hỷ xả, đạo quả giác ngộ Niết Bàn và trước tướng mạo trang nghiêm, dung nghi hỷ xả thanh thoát của Ðức Phật, Nan Ðà đã say sưa ngưỡng mộ về đức tướng trang nghiêm của Phật, tự so sánh mình và vẻ đẹp trần tục của vợ không nhằm vào đâu. Chẳng bao lâu Nan Ðà đã nghe theo lời khuyên của Ðức Phật, phát tâm xuất gia thọ giới tu hành. Nhưng với Nan Ðà thì thân tuy xuất gia, mà tâm chưa vào đạo, nên lòng lúc nào cũng nghĩ đến vợ, đến nhà và trông có dịp là chạy về thăm vợ. Lửa lòng chàng nung cháy hẩy hừng. Nhớ thương vợ bứt rứt cầm lòng không đặng, lắm lúc Nan Ða muốn xả giới để hoàn tục, hoặc đánh liều lén Phật về thăm rồi tới đâu thì tới.
Một hôm, trước khi lên đường đến xứ Ma Kiệt Ðà thuyết pháp giáo hóa, Ðức Phật gọi Nan Ðà đến căn dặn: “Hôm nay ta đáp lời thỉnh cầu của vua Tần Bà Ta La, ta đến thuyết pháp cho vua và hoàng tộc nghe và ta cùng đại chúng thọ trai cúng dường nơi đó, đến chiều mới về. Vậy ông ở nhà nhớ xách nước đổ cho đầy lu, rồi sau đó ông muốn làm gì tùy ý”.
Nan Ðà nghe Phật nói thế, lòng rất đỗi vui mừng, nghĩ bụng rằng, ta sẽ múc nước đổ đầy lu trong chốc lát, rồi ta thong dong về thăm Tôn Ðà Lợi, người vợ thương yêu của ta. Lâu ngày không gặp nhau, khi ta về thăm, chắc nàng mừng lắm!
Ðức Phật và Tăng chúng vừa ra khỏi tinh xá Kỳ Hoàn, Nan Ðà vội vã làm công việc múc nước đổ vào lu, cứ thế đổ mãi đến gần trưa, nhưng nước chỉ tới hai phần lu, không tăng thêm được nữa, dù ông cố sức chạy xách nước đổ vào lu cách nào, mực nước trong lu cũng chỉ thế chứ không đầy. Lấy làm lạ, Nan Ðà bực mình quăng thùng nước, lật lu xem có phải lu nứt bể hay không? Nhưng hình thái lu vẫn còn tốt, không có một dấu vết nào nứt lủng. Ông lại lật ngửa lu lại để ngay ngắn và bắt đầu dồn dập gấp rút hơn trước, xách nước múc đổ vào lu. Nhưng mực nước cũng chỉ đến nửa lu rồi ngừng. Dù ông ra sức xách nước đổ vào thế nào đi nước, mực nước trong lu cũng chỉ thế thôi. Không nhẫn nại được nữa, Nan Ðà quăng đôi thùng, nghĩ bụng rằng, Phật và Tăng chúng chiều tối mới trở về. Tốt hơn ngay bây giờ ta về nhà thăm nàng Tôn Ðà Lợi trước, rồi sau đó trở lại gánh nước đổ đầy lu cũng chẳng muộn gì. Vả lại Phật đâu có biết ta lén về.
Nan Ðà vừa bước vô nhà thì Ðức Phật hiện ra trước cửa. Nan Ðà thấy Phật giựt mình thất sắc, mồ hôi toát ra như tắm, vội vàng quỳ lạy ăn năn, thú thật nước chưa đầy lu.
Ðức Phật ôn tồn bảo: “Nước chưa đầy lu, sao con đến đây làm chi?”. Nan Ðà hổ thẹn, cúi đầu lặng thinh không nói nên lời. Ðoạn rồi Phật dẫn Nan Ðà trở về tinh xá và hết lời khuyên nhủ để cho tâm trí ông mở mang và kiên nhẫn tu hành.
Quán biết được cõi lòng của Nan Ðà đang bị lửa tham ái ầm ĩ đốt thiêu, nên Ðức Phật dùng phương tiện để độ ông kẻo tội nghiệp. Ðức Phật dẫn Nan Ðà vào rừng, thấy con khỉ cái già, lông lá rụng hết, bày trơ lớp da sần sùi, gầy gò tanh hôi, Ngài hỏi Nan Ðà:
– Con khỉ già này có đẹp bằng nàng Tôn Ðà Lợi vợ ông không?
Nan Ðà nhăn mặt lắc đầu:
– Bạch Thế Tôn, làm sao lại có thể so sánh được với nàng Tôn Ðà Lợi. Bởi nàng trẻ đẹp dịu dàng, da thịt mịn màng như nhung gấm thêu hoa, như trăng tỏa sáng, như mặt nước hồ thu.
Ðức Phật lặng thinh theo dõi dáng điệu lộ vẻ không bằng lòng của Nan Ðà. Ngài càng thương hại cho ông không hiểu thân người bất tịnh, lại bị lý vô thường phá hủy tạo thành sanh diệt huyễn ảo của kiếp người và vạn vật trên đời này. Con người và vạn vật ngày ngày lặng lẽ trôi về trạng thái già nua suy tàn. Nhưng Nan Ðà cũng như khắp trong thiên hạ có được mấy ai tỉnh ngộ?
Ngài lại dùng thần thông dắt Nan Ðà lên cõi trời thứ ba mươi ba. Trước cảnh trí ngời sáng huy hoàng, cỏ hoa thơm ngát, thông reo thác đổ, cùng các tiên nữ diễm lệ hương sắc tuyệt trần đang dạo chơi thưởng hoa ngắm bướm, vừa thấy Phật, các nàng tiên hân hoan vây quanh mừng vui kính lễ chào Ngài. Nan Ðà bỗng nhiên được sống trong cảnh trí hương sắc của tiên giới, cùng với những nàng tiên trẻ đẹp lộng lẫy tuyệt trần, lòng ông phấn khởi ngây ngất quên đi cõi trần thế, quên cả nàng Tôn Ðà Lợi, người vợ thương yêu của ông. Không cầm lòng được, bất giác Nan Ðà hỏi Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn, ở đây cảnh trí sao quá đẹp, người sao quá diễm lệ tuyệt trần?”.
Ðức Phật hỏi Nan Ðà:
– Ông thấy thế nào về vẻ đẹp của các tiên nữ so với nàng Tôn Ðà Lợi? Và vẻ đẹp của nàng Tôn Ðà Lợi cùng với con khỉ cái già lông lá rụng hết, da thịt nhăn nheo kia?
– Bạch Thế Tôn! Cả hai không khác gì nhau. Vẻ đẹp của nàng Tôn Ðà Lợi so với các tiên nữ ở đây cũng như con khỉ đột già kia so với vẻ đẹp của nàng Tôn Ðà Lợi. Bạch Ðức Thế Tôn, con muốn quên đi cõi trần thế để được ở luôn nơi đây. Cúi xin Ðức Thế Tôn từ bi thương xót cho con được toại nguyện ở lại đây.
Thấy Nan Ðà mà thương hại, Ðức Phật ôn tồn bảo:
– Nếu muốn ở lại dây, thì ông nên trực tiếp đến hỏi các tiên nữ kia.
Nan Ðà vui mừng, lòng tràn đầy hy vọng, liền lẹ chân hướng về các tiên nữ mở lời:
– Thưa các cô, tôi thấy cảnh thấy người nơi đây tự nhiên lòng tôi sanh cảm mến lạ thường. Tôi ước ao xin ở lại nơi dây, không biết có được chăng?
Các tiên nữ đáp: Muốn ở lại đây phải là những người ở cõi trần đã có tâm trì trai giới hạnh tu hành, biết làm nhiều việc phước thiện, lòng đã dứt tình ái ân.
– Nhưng sao ở đây không thấy người nam nào hết, thưa các cô? Nan Ðà hỏi.
– Chị em chúng tôi đang chờ mong ông Nan Ðà, em của Phật đang ở cõi trần, biết phát tâm tinh tấn trì giai giới hạnh tu hành, khi công đức đầy đủ sẽ sanh lên đây, làm chủ nhân ông sống cùng với chị em chúng tôi hưởng thú vui hạnh phúc.
Nan Ðà mừng quá reo lên:
– Nan Ðà chính là tôi đây!
Các tiên nữ đáp;
– Nhưng bây giờ chưa phải lúc được ở chốn này, vì Nan Ðà còn kém tu, phước duyên chưa đủ, tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo!
Nghe thế, Nan Ðà thất vọng não nề. Sau đó Ðức Phật lại dẫn Nan Ðà xuống cảnh giới địa ngục. Trước cảnh tượng tội nhơn bị qủy sứ đầu trâu mặt ngựa hành hạ, tra kẹp, gông cùm, thiêu đốt, máu chảy thịt rơi v.v… thốt ra những tiếng thất thanh từ nơi ngục lạnh, hầm chông biển lửa, Nan Ðà khiếp đảm sợ run, bám sát lấy Phật. Phật dẫn Nan Ðà đi khắp từ địa ngục này tới địa ngục khác, chứng kiến biết bao thảm trạng thống khổ hãi hùng của tội nhơn. Nan Ðà nãy giờ cúm rúm lặng thinh theo sát chân Phật. Có lúc ông phải nhắm mắt lại, không dám nhìn cảnh tượng hãi hùng rùng rợn chật ních tội nhơn: Kẻ thì bị cưa xẻ quăng vào vạc dầu sôi; kẻ bị ngồi trên bàn chông sắc lửa đỏ hừng hực cháy; kẻ bị trói vào trụ đồng nung lửa đỏ; kẻ bị quỷ dữ đuổi vào biển lửa cháy cong queo v.v…
Ðến một nơi khác thấy vạc dầu sôi sùng sục mà không có tội nhơn, ba con quỷ đầu trâu mặt ngựa cầm chỉa ba mắt to lờm lờm gầm gừ trong tư thế sẵn sàng đâm tội nhơn ném vào vạc dầu sôi. Thấy vậy, Nan Ðà bạch Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn, nãy giờ con thấy địa ngục nào cũng chật ních tội nhân bị hành hạ. Nhưng sao vạc dầu sôi này lại không có người?”
– Ðức Phật bảo Nan Ðà: Ông nên đến hỏi quỷ chủ ngục.
Nan Ðà vừa bước đến, ba quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa há miệng như máu, răng tóc tua tủa như chông sắt, đồng thanh đáp:
– Nơi đây chưa có tội nhơn là vì chờ Nan Ðà, em của Phật không chịu giữ giới tinh tấn tu hành, chết sẽ đọa vào đây!
Vừa nghe, Nan Ðà hoảng hốt rú lên thất thanh, hồn bay phách tán, toát mồ hôi dầm dề, quỳ lạy Phật cầu xin mau mau dẫn ra khỏi nơi khủng khiếp này.
Sau khi Ðức Phật dùng thần thông đưa ông Nan Ðà trở lại cõi thế gian, ông hoàn hồn hồi tưởng lại những cảnh hãi hùng vừa đã chứng kiến, ông thành tâm nghe lời Phật khuyên nhủ, dứt khoát bỏ vọng tâm danh lợi ái ân, dốc chí theo Phật một lòng tinh tấn chuyên tâm tu hành, chẳng bao lâu, ông chứng thánh quả.
Nhưng thưa quý vị! Suy nghĩ kỹ, đâu phải nào chỉ có tâm trạng của Nan Ðà tham đắm lợi danh, đam mê ái dục, lòng nặng ích kỷ hưởng thụ? Nếu tôi không lầm trong mỗi con người chúng ta đều mang tâm trạng ấy một cách nặng nề sâu vào cốt tủy, làm hủy diệt biết bao khả năng thánh thiện của chúng ta. Tôn giả Nan Ðà đã hơn người đời ở chỗ là biết hổ thẹn ăn năn sám hối. Ông đã kịp thời tỉnh thức lương tri, nghe lời Phật dạy gắng công tu hành.
Sau khi được Phật phương tiện khai thị, ông đã hùng dũng đoạn trừ tất cả lòng tham ái lợi danh, khai nguồn tuệ giác, và cuối cùng Nan Ðà đã trở thành bậc thánh thiện giác ngộ. Còn chúng ta thì sao? Có ai dám thành tâm tự nhận rằng tôi yếu kém xấu xa thua người. Hay chỉ thích vạch lá tìm sâu, phê bình nói xấu, thêu dệt thêm thắt lỗi lầm của người khác? Ai đã dám dứt khoát từ bỏ danh lợi ái ân, thực sống với chính mình, tự nhận mình quá ư phàm tục, để dõng mãnh phát tâm nguyện sống đời từ bi hỳ xả vị tha, để thánh thiện theo hạnh Phật, để lợi ích cho mình và cho người. Hay chỉ quanh quẩn trong vòng tình cảm tham vọng hạn hẹp?
Chính điều này tuy không thấy có hình thức, nhưng là cội nguồn của buồn khổ, của tội lỗi, của đọa đày bất an cho suốt đời mình và vạn loại sinh linh.
Chừng nào biết dứt bỏ tình danh lợi, thì chừng ấy mới thực sự sống gần ánh đạo vàng giải thoát:
Ðắm đắm say say chuyện thế gian,
Lợi danh tình ái khéo đa mang,
Bao giờ dứt bỏ tình danh lợi,
Là bước gần bên ánh đạo vàng.
Thưa quý vị! Ðạo Phật là đạo từ bi giác ngộ, là đạo độ đời giải thoát mọi phiền lụy khổ đau. Mục đích của đạo Phật là thức tỉnh người đời sống thực với lòng mình và nhìn thẳng vào cuộc đời để nhận chân mình và hiểu rõ mọi hiện tượng thịnh suy thành bại của cuộc đời. Thực chất của thân người là sanh, già, bệnh, chết, khổ và không. Thực chất của cuộc đời là danh lợi, ái dục. Con người và cuộc đời được xây dựng trên tham lam, sân hận, si mê, ích kỷ và tất cả đều giả tạm. Con người suốt đời quanh quẩn đắm chìm trong vòng tranh chấp thị phi. Do đó, bi quan, lạc quan, thành bại, ái ân của tình đời được tô điểm lên lớp tự kỷ, mỹ hóa, nhưng thực chất của mọi hiện trạng vẫn là ích kỷ, tham, sân, si, ái dục, danh lợi, khổ và không.
Ðức Phật nhận thấy chúng sanh đắm chìm trong hư giả mộng huyễn, liên miên chụp bắt chấp trước rồi sanh ra tranh chấp tạo đau khổ cho nhau, nên động lòng thương mà thuyết giảng hướng dẫn để cho người đời tỉnh thức. Kinh Lăng Già nói: “Thế gian ly sanh diệt, du như hư không hoa. Trí bất đắc hữu vô, nhi hứng đại bi tâm. Viễn ly ư đoạn thường, thế gian hằng như mộng”. Nghĩa là: Nếu thế gian lìa sanh diệt thạnh suy vinh nhục hơn thiệt thì giả huyễn như hoa đóm giữa hư không. Nhưng chúng sanh không nhận rõ điều đó, nên đắm đuối khổ lụy. Vì vậy Phật động lòng từ bi mới giảng thuyết giáo pháp để cho chúng sanh thấu rõ vạn sự thế gian là mộng, đừng dong ruổi, nên gắng tu để giác ngộ, chứng chân thật giải thoát.
Ðể tránh rơi vào cái khổ tâm thao thức triền miên của kiếp người bất an, Ðức Phật khuyên con người nên sớm tu tỉnh. Muốn tu tỉnh thì trước nhất phải mở rộng lòng ra, biết tri túc, hỷ xả, bố thí, thương giúp người, biết phản tỉnh tự tâm, biết rõ ta từ lòng mẹ ra đời với hai bàn tay trắng và ngày từ giã cõi đời này cũng chỉ với hai bàn tay trắng. Tình ân ái vợ chồng con cái quyến thuộc có thương tiếc kéo níu lại cũng không được. Dẫu giàu có tiền kho bạc biển cũng không mua chuộc được với tử thần. Quỷ vô thường đến dắt đi không thể hẹn. Mạng sống của đời người chỉ trong hơi thở. Thở ra mà không hít vào là kết liễu mạng sống. Sớm còn tối mất nào có chắc gì? Nếu chúng ta không biết tĩnh tu, suốt tháng năm, suốt cả cuộc đời cứ chạy theo hy vọng hảo huyền, để cho lòng tham lam, ái dục, ích kỷ lôi cuốn, một mai nhắm mắt lìa đời, có ân hận mình sao vụng tu thiếu phước cũng chẳng kịp.
Trích từ Pháp Ngữ Lục của HT Thích Đức Niệm
Posted by Đường Về Cực Lạc on Tháng Chín 16, 2015 at 5:59 chiều
Người Niệm Phật Phải Sửa Tánh Xấu Mới Dễ Vãng Sanh
Người niệm Phật tối kỵ nhất chính là trong tâm tạp loạn, suy nghĩ đủ thứ. Niệm Phật như vậy có nhiều đi nữa, thì công phu cũng không đắc lực, công phu thật sự đắc lực chính là vọng tưởng, tạp niệm ít đi, trí tuệ thanh tịnh tăng nhiều, thì có được lợi ích niệm Phật rồi. Một mặt niệm Phật, còn một mặt suy nghĩ đủ thứ, thị phi nhân ngã, đấy là tự làm hại bản thân mình, hủy diệt bản thân mình. Tâm thái như vậy giống như suốt ngày làm bạn với ma. Người niệm Phật nhất tâm thanh tịnh, một câu Phật hiệu tiếp nối một câu Phật hiệu thì làm bạn với Phật.
Lúc niệm Phật, tâm giống Phật hay không? Thật sự niệm đến mức tâm giống như tâm Phật, nguyện giống nguyện Phật, hạnh giống hạnh Phật mới có thể vãng sanh. Trong miệng niệm Phật, trong tâm vẫn có thị phi nhân ngã, tham, sân, si, mạn thì người này không thể vãng sanh. Vì sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, ngày ngày còn cãi cọ với Chư Thượng Thiện Nhân, làm cho Tây Phương Cực Lạc Thế Giới cũng không yên ổn, tất nhiên là như vậy. Không sửa tập khí xấu thì niệm Phật không thể vãng sanh.
Phải niệm cho sạch hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tâm liền thanh tịnh, đấy là biết niệm. Một mặt niệm Phật, một mặt sanh vọng tưởng, đấy là không biết niệm, có niệm thì cũng không thể vãng sanh. Vì thế công phu niệm Phật là như trong kinh nói “nhất tâm bất loạn”, niệm đến nhất tâm bất loạn thì thành công.
Ta phải bỏ cho hết tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đều buông bỏ hết, chỉ cần một câu Phật hiệu này. Ðây là người thật sự tu Tịnh Ðộ, đây là đệ tử Phật chân chánh. Ðặt hết tâm ý vào trong câu Phật hiệu hoặc là vào việc tụng kinh, vọng niệm có sanh ra thì đừng để ý đến. Niệm như vậy lâu rồi, tập trung tâm ý thì chính là trong kinh nói “nhất tâm”, quyển kinh này nói “nhất hướng chuyên niệm”. Tâm của bạn chuyên nhất, vọng tưởng sẽ dần dần ít đi, đây chính là công phu đắc lực, công phu tiến bộ. Ðến khi công phu thật sự đắc lực, bạn sẽ cảm thấy bản thân hoàn toàn không giống trước đây, có thể thật sự cảm nhận được niềm vui hạnh phúc của đời người, được thân tâm tự tại; phiền não ít đi, vọng tưởng ít đi, tâm địa thanh tịnh, trí tuệ tăng trưởng.
Lục Tổ nói rất hay: “Tự Phật, tha Phật thị nhị pháp” (tự Phật, tha Phật là hai pháp). Hai pháp thì không phải là Phật Pháp. “Nhất niệm bất sanh” (không sanh một niệm) chính là Phật Pháp. Sanh một niệm là vọng niệm. Chúng ta một ngày từ sáng đến tối niệm câu “A Di Ðà Phật” này là chánh niệm. Ta nhớ A Di Ðà Phật, ta và Phật hòa vào nhau, hợp lại thành một thể. Nhớ và niệm A Di Ðà Phật, không phân biệt Phật cũng không phân biệt ta, chính là chánh niệm hiện tiền. Hễ sanh phân biệt chính là vọng tưởng, chính là chấp trước. Vì thế dùng câu Phật hiệu này niệm cho sạch vọng tưởng, chấp trước là đúng rồi.
Trích từ sách Niệm Phật Thành Phật
Pháp sư Tịnh Không